TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 144/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 11 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 130/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2019 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 101/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07/5/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Mỹ P, sinh năm 1986; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú ấp B, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; nơi tạm trú: số A, ấp B, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; có mặt.
Bị đơn: Ông Đinh Văn D, sinh năm 1981; địa chỉ: số B, ấp B, xã H, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị Mỹ P trình bày, sau thời gian quen biết và tìm hiểu, bà P, ông D kết hôn vào năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện C vào ngày 03/5/2007. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 03 con chung tên Đinh Thị Thu N, sinh ngày 19/9/2001, Đinh Thị Thu N1, sinh ngày 24/6/2004 và Đinh Thị Thu H, sinh ngày 26/8/2009. Các con chung đang được bà P chăm sóc, nuôi dưỡng.
Cách nay khoảng 01 năm, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau do ông D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không quan tâm, chăm lo cho gia đình. Sau khi biết được ông D quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, bà P có khuyên và tạo rất nhiều cơ hội cho ông D sửa chữa lỗi lầm nhưng ông D không thay đổi. Khoảng thời gian đó, tinh thần bà P hoàn toàn suy sụp, chịu nhiều tổn thương nhưng ông D vẫn không quan tâm đến bà P. Vợ chồng không còn sống chung từ tháng 10/2018 cho đến nay.
Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà P yêu cầu được ly hôn với ông D; yêu cầu được nuôi dạy 03 con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi dạy con chung; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung.
Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện là: giấy chứng nhận kết hôn số 79, quyển số I/2007 ngày 03/5/2007, các giấy khai sinh của Đinh Thị Thu N, sinh ngày 19/9/2001; Đinh Thị Thu N1, sinh ngày 24/6/2004 và Đinh Thị Thu H, sinh ngày 26/8/2009 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện C cấp.
Theo các lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Đinh Văn D thống nhất với trình bày của bà P về thời gian, điều kiện đi đến hôn nhân, thời gian kết hôn, về con chung, tài sản chung, nợ chung.
Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh ph c, không xảy ra mâu thuẫn; có khoảng thời gian, ông D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác . Tuy nhiên, từ khi bà P bỏ nhà đi đến nay, ông D đã chấm dứt việc này, sửa chữa lỗi lầm. Từ khi bà Phương bỏ đi cho đến nay, ông D và bà P không gặp mặt nhau, không tới lui thăm nom, chăm sóc lẫn nhau.
Do còn thương vợ, con nên ông D không chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P, ông D yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Thu H, không yêu cầu bà P cấp dưỡng nuôi con; ông D đồng ý để bà P chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N và cháu N1; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung và nợ chung.
Ông D không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.
Trong giai đoạn chung bị xét xử, Tòa án đã tiến hành thủ tục hòa giải giữa các đương sự nhưng các đương sự không thỏa thuận được nội dung vụ án nên hòa giải không thành.
Theo biên bản ghi nhận ý kiến ngày 13/3/2019 do cán bộ Tòa án lập, các cháu Đinh Thị Thu N , Đinh Thị Thu N1 và Đinh Thị Thu H có nguyện vọng sống với bà P trong trường hợp bà P, ông D ly hôn.
Tại phiên tòa,
- Bà P trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chung bị xét xử. Ngoài các tài liệu, chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án, bà P không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.
- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chung bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, bà P và ông D chung sống có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa bà P, ông D hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung, ông D, bà P không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, bà P xác định không còn tình cảm với ông D. Điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P đối với ông D theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Về con chung, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà P; giao các cháu Đinh Thị Thu N, Đinh Thị Thu N1 và Đinh Thị Thu H cho bà P nuôi dạy. Do bà P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi dạy con chung nên không đề cập đến.
Về tài sản chung, nợ chung, đề nghị không đề cập giải quyết.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Bà Trần Thị Mỹ P khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Đinh Văn D. Đồng thời, ông D cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ông Đinh Văn D đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông D theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Bà P và ông D tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa bà P, ông D là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Bà P xác định, cách nay khoảng 01 năm, do ông D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không quan tâm, chăm lo cho gia đình nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng không còn sống chung từ tháng 10/2018 cho đến nay. Cho nên, bà P yêu cầu được ly hôn với ông D.
Ông D thừa nhận, trong thời gian chung sống, ông D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác dẫn đến vợ chồng không còn chung sống từ tháng 10/2018 cho đến nay. Tuy nhiên, từ khi bà P bỏ nhà đi cho đến nay, ông D đã chấm dứt việc này, sửa chữa lỗi lầm. Từ khi không còn sống với nhau, ông D, bà P không gặp nhau đề hàn gắn tính cảm vợ chồng.
Từ các chứng cứ trên, có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng bà P, ông D là trầm trọng với nguyên nhân chủ yếu do ông D có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn nhau, không còn chung sống với nhau từ tháng 10/2018 dến nay.
Bên cạnh đó, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, từ khi Tòa án thụ lý đến phiên tòa được mở, ông D, bà P cũng không có thiện chí gặp nhau, hàn gắn tình cảm vợ chồng.
Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà P đối với ông D.
[2.2] Về con chung: Bà P và ông D thống nhất, trong thời kỳ hôn nhân, bà P, ông D có sinh sinh 03 con chung tên Đinh Thị Thu N, sinh ngày 19/9/2001, Đinh Thị Thu N1, sinh ngày 24/6/2004 và Đinh Thị Thu H, sinh ngày 26/8/2009. Bà P yêu cầu được nuôi dạy 03 con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi dạy con chung.
Ông D yêu cầu được nuôi dạy cháu H; chấp nhận giao các cháu N, N1 cho bà P nuôi dạy. Ông D, bà P không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung cho nhau.
Xét yêu cầu nuôi con của bà P, ông D thấy rằng, từ khi không còn chung sống với nhau, bà P trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung. Bà P khai có đủ điều kiện nuôi bản thân và các con chung. Đồng thời, theo biên bản ghi nhận ý kiến ngày 13/3/2019 do cán b Tòa án lập, các cháu Đinh Thị Thu N, Đinh Thị Thu N1 và Đinh Thị Thu H có nguyện vọng sống với bà P trong trường hợp bà P, ông D ly hôn. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển tốt về thể chất, tinh thần của các con chung, Hội đồng xét xử giao con chung cho bà P tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà P không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà P, ông D cùng thống nhất không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.
[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà P phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông D không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các Điều144, 147, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu miễn giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Mỹ P.
1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị Mỹ P được ly hôn với ông Đinh Văn D.
Giấy chứng nhận kết hôn số số 79, quyển số I/2007 ngày 03/5/2007 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho bà Trần Thị Mỹ P và ông Đinh Văn D không còn giá trị pháp lý.
2. Về con chung: Bà Trần Thị Mỹ P được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung tên Đinh Thị Thu N, sinh ngày 19/9/2001, Đinh Thị Thu N1, sinh ngày 24/6/2004 và Đinh Thị Thu H, sinh ngày 26/8/2009. Ông Đinh Văn D không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.
Bà Trần Thị Mỹ P cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Đinh Văn D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có th m quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
3. Về án phí sơ thẩm: Bà Trần Thị Mỹ P phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã n p 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền án phí số TU/2016/0012576 do Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 12 tháng 02 năm 2019; bà Trần Thị Mỹ P đã nộp đủ án phí.
Ông Đinh Văn D không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Trần Thị Mỹ P có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Riêng thời hạn kháng cáo của ông Đinh Văn D là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp ản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự ngườii phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 144/2019/HNGĐ-ST ngày 11/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 144/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về