Bản án 83/2018/HS-ST ngày 12/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 83/2018/HS-ST NGÀY 12/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 80/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2018/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Lèo Văn T, sinh ngày 10 tháng 11 năm 1997 tại huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: Bản N, xã Đ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; tạm trú: Tổ X, phường Q, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Sinh viên trường Đại học T; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lèo Văn H, sinh năm 1967 và bà Lò Thị T, sinh năm 1975; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11 tháng 01 năm 2018 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 40 phút ngày 11/01/2018 tại khu vực tổ 3, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La, Lèo Văn T bị tổ công tác Công an phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La phát hiện, bắt quả tang khi đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói băng dính màu đen, bên trong có 01 gói giấy bạc có chứa 10 viên nén hình tròn đồng dạng màu hồng (T tự giác lấy trong túi áo khoác bên trái ra giao nộp, khai là hồng phiến cất giữ để sử dụng).

Ngoài ra còn tạm giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen, nắp lưng sau bị vỡ, đã qua sử dụng.

Ngày 12 tháng 01 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh: 10 viên nén màu hồng có khối lượng 0,94 gam; lấy 05 viên = 0,46 gam làm mẫu gửi giám định chất ma túy, ký hiệu T1; còn lại 05 viên = 0,48 gam làm mẫu lưu kho, ký hiệu T2.

Kết luận giám định số 215 ngày 16/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,46 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,94 gam, loại chất Methamphetamine. Mẫu giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Quá trình điều tra, Lèo Văn T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 11/01/2018, Lèo Văn T đi bộ từ phòng 201 - Ký túc xá Y, trường Đại học T (thuộc tổ X, phường Q, thành phố Sơn La) ra khu dân cư mới thuộc bản Nà Cạn, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây T đã gặp và hỏi mua được của một người nam giới không quen biết 01 gói băng dính màu đen, bên trong có 01 gói giấy bạc có chứa 10 viên hồng phiến với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi mua được hồng phiến, T cất vào túi áo khoác bên trái rồi đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến đoạn đường vào khu trọ sinh viên thuộc tổ 3, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La thì bị Cơ quan công an phát hiên băt qua tang cùng toàn bộ vật chứng thu giữ.

Về nguồn gốc 0,94 gam Methamphetamine bị thu giữ: Bị cáo Lèo Văn T khai mua của một người nam giơi không quen biết vào ngày 11/01/2018 tại khu dân cư mới thuộc bản Nà Cạn, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La nhưng T không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người nam giới đó. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh, do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La không có căn cứ điều tra mở rộng vụ án.

Do có hành vi nêu trên tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKSTP ngày 26/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Lèo Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điêm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lèo Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lèo Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điêm s khoan 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bi cao Lèo Văn T từ 13 đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 0,48 (không phẩy bốn mươi tám) gam Methamphetamine; 01 (một) phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 (một) mảnh băng dính màu đen; 01 (một) mảnh giấy bạc đã được niêm phong trong 01 (một) chiếc phong bì công văn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, mặt trước ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lèo Văn T, sinh năm 1997 - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 11/01/2018”.

Trả lại cho bị cáo Lèo Văn T: 01 (một) chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen được niêm phong trong 01 (một) phong bì có viền xanh đỏ, mặt trước ghi: “Điện thoại di động thu giữ của Lèo Văn T, sinh năm 1997, trú tại tổ X, phường Q, thành phố Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 11/01/2018 tại tổ 3, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La”.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa , bị cáo Lèo Văn T nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát , đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Do nghiện chất ma túy, ngày 11/01/2018, Lèo Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,94 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tổ 3, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 20 giờ 50 phút ngày 11/01/2018 tại tổ 3, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Lèo Văn T cùng vật chứng thu giữ là 01 gói băng dính màu đen, bên trong có 01 gói giấy bạc có chứa 10 viên nén hình tròn đồng dạng màu hồng, có trọng lượng 0,94 gam Methamphetamine; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 215 ngày 16/01/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1959, trú tại: Tổ 3, phường Y, thành phố Sơn La , tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lèo Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[2] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo Lèo Văn T phạm tội với tổng 0,94 gam Methamphetamine, vi phạm tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ một năm đến năm năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó, cần lên mức án tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo biện pháp cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần cân nhắc về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): bị cáo là đối tượng sử dụng ma túy, là sinh viên, sống phụ thuộc vào gia đình, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Lèo Văn T khai mua của một người nam giơi không quen biết tại khu dân cư mới thuộc bản Nà Cạn, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La nhưng T không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người nam giới đó. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó, buộc bị cáo Lèo Văn T phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[5] Vật chứng vụ án:

Đối với 0,48 gam Methamphetamine còn lại trong vụ án sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 (một) vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 (một) mảnh băng dính màu đen; 01 (một) mảnh giấy bạc là vật không còn giá trị sử dụng.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 vỏ màu đen, qua sử dụng đã được niêm phong: Quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo mang theo khi phạm tội, không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Do hành vi phạm tội của bị cáo nên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Lèo Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lèo Văn T: 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 11/01/2018).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 0,48 (không phẩy bốn mươi tám) gam Methamphetamine; 01 (một) phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 (một) mảnh băng dính màu đen; 01 (một) mảnh giấy bạc đã được niêm phong trong 01 (một) chiếc phong bì công văn của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, mặt trước ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lèo Văn T, sinh năm 1997 - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 11/01/2018”.

Trả lại cho bị cáo Lèo Văn T: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 màu đen được niêm phong trong 01 (một) chiếc phong bì có viền xanh đỏ đã niêm phong, mặt trước phong bì ghi: “Điện thoại di động thu giữ của Lèo Văn T, sinh năm 1997, trú tại tổ X, phường Q, thành phố Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 11/01/2018 tại tổ 3, phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La”, mặt sau có một dấu tròn đỏ của Công an phường Quyết Tâm và chữ ký, họ tên của thành phần tham gia niêm phong , kiêm tra niêm phong con nguyên ven.

(Theo Theo Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 11/01/2018 của Công an phường Quyết Tâm, thành phố Sơn La; Biên bản mở niêm phong cân tịnh vật chứng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 12/01/2018 của Công an thành phố Sơn La và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/5/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14: Buộc bị cáo Lèo Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 12/6/2018)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 83/2018/HS-ST ngày 12/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:83/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về