TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 82/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 85/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Nguyễn Trung H, sinh năm 1987, tại Thành phố H; giới tính: Nam; nơi ĐKHKTT: 417B5 PBK, Phường N, Quận S, Thành phố H; chỗ ở: Nhà không số thuộc ấp 2, xã M, huyện B, tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; họ và tên cha: Trần Văn M, sinh năm 1951; họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1951; hoàn cảnh gia đình: Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Châu Ph, sinh năm 1990, có 01 người con sinh năm 2011.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 26/9/2011, bị Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 315/2011/HSST ngày 26/9/2011); chấp hành án xong vào ngày 24/4/2013, theo Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số 182/GCN-CHXHPT ngày 24/4/2013, của trại giam HK; đóng án phí ngày 13/12/2011, theo Biên lai thu số 1542 ngày 13/12/2011 của Chi cục Thi hành án dân sự quận B, Thành H.
Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 15/12/2020, bị cáo có mặt tại phiên toà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Huỳnh Hữu L, sinh năm 1980; nơi cư trú: 306, Lô KN, chung cư B, Phường M, Quận B, Thành phố H (vắng mặt)
2. Ông Trần Nguyễn Trung D, sinh năm 1994; nơi cư trú: Nhà không số thuộc ấp 2, xã M, huyện B, tỉnh A (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Quá trình điều tra xác định như sau: Trần Nguyễn Trung H là người nghiện ma túy và không có nghề nghiệp ổn định, để có tiền tiêu xài cho bản thân H đã thực hiện mua bán trái phép chất ma túy trong khoảng thời gian dài. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 15/12/2020, H đang ở nhà tại ấp 2, xã M, huyện B, tỉnh Athì có người phụ nữ tên Th (không rõ lai lịch) gọi vào số điện thoại di động 0909369073 của H hỏi mua 01 hộp ma túy đá với giá 4.000.000 đồng, H đồng ý và hẹn giao ma túy ở gần Bệnh viện Nhi đồng Thành phố H thuộc ấp 1, xã T, huyện B. Đến khoảng 13 giờ 00 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển số 51F8-3511 đi từ nhà đến khu vực gần trường Trung học cơ sở H, trên đường LS, Phường M, Quận K, Thành phố H mua 01 gói ma túy đá của người đàn ông tên Ph (không rõ lai lịch) với giá 3.800.000 đồng. Sau đó, H cất vào túi quần Jeans bên trái của mình đang mặc rồi điều khiển xe đi về điểm hẹn để bán ma túy. Trên đường đi giao ma túy khi đi đến ngã tư đường Kênh 10 - VTC, thuộc tổ 10, ấp 6, xã T, huyện B thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng vào khoảng 16 giờ cùng ngày. Lực lượng Công an tiến hành thu giữ vật chứng và đưa H về trụ sở Công an xã T, huyện B lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang đối với H. Qua test ma túy, xác định H có sử dụng ma túy. Vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý.
Qua điều tra còn xác định: Trước đó H đã 05 lần mua ma túy của người đàn ông tên Phúc (không rõ lai lịch) mỗi lần với giá khoảng từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng rồi mang về nhà chia thành nhiều tép nhỏ để bán cho người nghiện với giá từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng/tép, thu lợi bất chính tổng số tiền từ 500.000 đồng đến 700.000 đồng.
Bản kết luận giám định số 22/KLGĐ-H ngày 23 tháng 12 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành H, kết luận:
“Tinh thể không màu trong gói nylon thu giữ của Trần Nguyễn Trung H là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9630g, loại Methamphetamine” (sau giám định còn lại 9,6555g).
Vật chứng vụ án gồm:
- 01 gói nylon hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể không màu qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9630g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại 9,6555g).
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung, IMEI 1: 355726/09/466717/8, IMEI2: 355727/09/466717/6 cùng 01 simcard không rõ số, 01 simcard số 5849 là phương tiện H dùng vào việc phạm tội và 02 bộ dụng cụ H dùng để sử dụng ma túy.
- 01 xe mô tô hiệu DIOAM, biển số 51F8-3511, số máy: 00702456, số khung: 0702448.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thì bị cáo Trần Nguyễn Trung H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại Cáo trạng số 88/CT-VKS ngày 31/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Nguyễn Trung H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Nguyễn Trung H đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Bị cáo không tranh luận, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị:
Xử phạt bị cáo Trần Nguyễn Trung H từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Phạt bổ sung bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Nguyễn Trung H tại tòa là phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL:79 – 93); phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả giám định vật chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang ... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 15/12/2020, bị cáo Trần Nguyễn Trung H đã có hành vi tàng trữ 9,9630g là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine. (Theo Kết luận giám định số 22/KLGĐ-H ngày 23 tháng 12 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành Phố Hồ Chí Minh) với mục đích để bán cho người nghiện thì bị phát hiện bắt quả tang vào lúc 16 giờ 00 phút cùng ngày tại ngã tư đường Kênh 10 - VTC, thuộc tổ 10, ấp 6, xã T, huyện B.
[3] Với những tình tiết được chứng minh tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Nguyễn Trung H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo với tội danh nêu trên là đúng người, đúng tội.
[4] Tội phạm do bị cáo gây ra là nguy hại cho xã hội, mặc dù bị cáo biết rõ ma túy là loại biệt dược được Nhà nước thống nhất quản lý hết sức chặt chẽ, mọi hành vi liên quan đến ma túy từng mức độ sẽ bị xử lý hình sự. Bị cáo là người đã trưởng thành, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có ma tuý sử dụng, muốn có tiền tiêu xài cho bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương là tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
[5] Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ để bán cho người nghiện là 9,9630g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine; đây là tình tiết định khung hình phạt cần áp dụng điểm i Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bỏ sung năm 2017) để xét xử và có mức án nghiêm đối với bị cáo là phù hợp.
[6] Bị cáo khai bán ma túy trong khoảng thời gian dài và bán cho nhiều người, tuy nhiên chỉ có chứng cứ duy nhất là lời khai của bị cáo ngoài ra không có chứng cứ nào khác để chứng minh bị cáo bán ma túy hai lần trở lên; do đó theo nguyên tắc có lợi cho bị cáo thì không có cơ sở để xét xử bị cáo thêm tình tiết định khung là phạm tội hai lần trở lên.
[7] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về tội phạm ma túy, cụ thể: Ngày 26/9/2011, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 315/2011/HSST ngày 26/9/2011) nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội với mức độ nguy hiểm ngày càng cao hơn nên khi lượng hình Hội đồng xét xử lưu ý đến nhân thân của bị cáo mà có mức án nghiêm.
[8] Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ rõ ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
[9] Đối với người đàn ông tên Phúc bán ma túy cho bị cáo; người phụ nữ tên Thắm là người đặt mua ma túy của bị cáo và những người bị cáo bán ma túy; do tất cả không rõ lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục truy xét, khi nào bắt được sẽ làm rõ và xử lý sau.
[10] Về xử lý vật chứng vụ án:
Đối với 01 gói nylon hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể không màu qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9630g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại 9,6555g); 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy; đây là các vật cấm tàng trữ, không có giá trị sẽ tịch thu tiêu hủy theo điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung, IMEI 1: 355726/09/466717/8, IMEI2: 355727/09/466717/6 cùng 01 simcard không rõ số, 01 simcard số 5849, là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo nhưng bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện vào việc vào phạm tội sẽ tịch thu nộp vào Ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Đối với 01 xe mô tô hiệu DIOAM, biển số 51F8-3511, số máy: 00702456, số khung: 0702448, bị cáo khai xe mô tô trên mượn của ông Trần Nguyễn Trung D (em ruột của bị cáo). Tiến hành xác minh xe mô tô này do ông Huỳnh Hữu L đứng tên trên Giấy đăng ký xe nhưng ông L đã chuyển nhà đi đâu không rõ. Qua làm việc ông D khai xe mô tô trên do ông mua của một người không rõ lai lịch dùng để làm phương tiện đi lại, bị cáo mượn xe đi công việc sau đó sử dụng xe trên đi mua bán ma túy ông D không biết nên không có lỗi; mặt khác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã làm thủ tục đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng không ai đến liên hệ nhận lại xe nên Hội đồng xét xử giao trả xe trên cho ông D là phù hợp.
[11] Về trách nhiệm dân sự: Trong thời gian bị cáo mua bán trái phép chất ma tuý có thu nhập bất chính; tuy nhiên ngoài lời khai duy nhất của bị cáo thì không có chứng cứ nào khác chứng minh số tiền thu nhập bất chính cụ thể là bao nhiêu nên miễn bị cáo nộp lại số tiền này mà áp dụng Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) phạt bị cáo một số tiền nhất định để nộp vào Ngân sách Nhà nước là phù hợp.
[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm i Khoản 2, Khoản 5 Điều 251; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Căn cứ vào các điểm a, c Khoản 2; điểm b Khoản 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Trần Nguyễn Trung H 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2020.
Phạt bổ sung bị cáo Trần Nguyễn Trung H số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước.
Việc bị cáo nộp số tiền phạt nêu trên phải được thực hiện ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Về vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể không màu qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 9,9630g, loại Methamphetamine (sau giám định còn lại 9,6555g); 02 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung, IMEI 1: 355726/09/466717/8, IMEI2: 355727/09/466717/6 cùng 01 simcard không rõ số, 01 simcard số 5849.
Trả lại cho ông Trần Nguyễn Trung Dũng 01 xe mô tô hiệu DIOAM, biển số 51F8-3511, số máy: 00702456, số khung: 0702448.
(các vật chứng này hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao, nhận vật chứng lập vào 09 giờ 00 phút ngày 23 tháng 3 năm 2021 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh).
Về án phí: Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính kể từ ngày nhận Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án 82/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 82/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về