Bản án 40/2019/HSST ngày 16/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 40/2019/HSST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 39/2019/HSST, ngày 20 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2019/QĐXXST-HS, ngày 02 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đối với các bị cáo:

1. Hoàng Lê Trung H, tên gọi khác: Bờm, sinh năm 1989, tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; trình độ học vấn: 6/12; con ông: Hoàng Đình T, sinh năm 1967 và con bà: Lê Thị Cẩm N, sinh năm 1970; vợ là: Hoàng Thùy L, sinh năm 1996 và 01 con, sinh năm 2017; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Ngày 09/5/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản tại bản án số 14/2014/HSST, bị cáo đã được xóa án tích; biện pháp ngăn chặn được áp dụng: Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/6/2019 hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil – Có mặt.

2. Trần Thanh T, sinh năm 1995, tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; trình độ học vấn: 8/12; con ông: Trần Hùng T (đã chết) và con bà: Lê Kim H, sinh năm 1965; tiền sự, tiền án: Không; biện pháp ngăn chặn được áp dụng: bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/6/2019 hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil – Có mặt.

Ngưi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Văn H, sinh năm 1970; địa chỉ: Thôn M, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

Ngưi làm chứng:

- Anh Hoàng Văn H; sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

- Anh Hoàng Đức H, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 10/6/2019, Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T đang chơi ở nhà H tại thôn Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông thì có đối tượng tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là đối tượng nghiện ma túy điện thoại cho Hoàng Lê Trung H nhờ H mua giúp T ma túy dạng đá với số tiền 1.000.000 đồng thì Hoàng Lê Trung H đồng ý. Hoàng Lê Trung H rủ Trần Thanh T cùng đi thành phố B, tỉnh Đắk Lắk để mua ma túy đá thì Trần Thanh T đồng ý. Hoàng Lê Trung H điều khiển xe máy nhãn hiệu Kawasaki Max, màu trắng, biển kiểm soát 48AE-005.50 (xe của anh Ngô Văn H - là bạn của H) chở Trần Thanh T đi đến đoạn đường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thì H dùng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, bên trong có 02 sim số 0819084879; 0813331279 điện cho một người đàn ông (không rõ họ tên, nhân thân lại lịch) hỏi mua ma túy đá thì người đàn ông này đồng ý bán cho H, H để T ở lại đường L, còn một mình H điều khiển xe máy đi đến khu vực gần chợ T phố thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk gặp đối tượng bán ma túy mua 05 gói ma túy đá với số tiền 900.000 đồng, sau khi mua được ma túy, H quay lại đón T rồi cùng nhau chở về nhà H.

Khong 20h cùng ngày, Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T về đến nhà H, lúc này tại nhà H có Hoàng Văn H, Hoàng Đức H đến chơi thì Hoàng Lê Trung H lấy 01 gói ma túy đá ra rủ T, H và H cùng sử dụng thì tất cả đều đồng ý, H, T, H và H sử dụng hết 01 gói ma túy. Khoảng 20h40 cùng ngày, đối tượng T gọi điện thoại cho H để mua ma túy, H nói T đến nhà H để lấy ma túy, đến 21h10 cùng ngày, T điện thoại cho H nói xe bị hư và nói H đi đến cây xăng Kiến Tạo ở Bon Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông để giao ma túy cho T.

Hoàng Lê Trung H lấy 03 gói ma túy bỏ vào 01 gói ni lông màu đen và nhờ Trần Thanh T đưa đến cây xăng Kiến Tạo để giao cho T và lấy 1.000.000 đồng về cho H thì T đồng ý, trước khi đi H đưa cho T 01 gói ma túy để T sử dụng, T cầm gói ma túy bỏ vào túi áo khoác, còn 03 gói ma túy bỏ trong túi ni lông màu đen T cầm trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy nhãn hiệu Kawasaki Max, màu trắng, biển kiểm soát 48AE-005.50 đi đến cây xăng Kiến tạo ở Bon Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil. Đến nơi T lấy điện thoại nhãn hiệu Nokia N110i, màu xanh -trắng, bên trong có sim số 0962041042 điện thoại cho H nói H điện thoại cho T ra lấy ma túy, khi Trần Thanh T đang ngồi chờ T đến thì bị lực lượng Công an huyện Đắk Mil phát hiện và bắt quả tang vào lúc 21h30 cùng ngày, khi bị phát hiện bị bắt quả tang, T liền ném gói ma túy đang cầm trên tay trái xuống đất cách vị trí T đứng khoảng 01m.

Quá trình bắt quả tang, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 gói ni lông màu đen bên trong có 03 gói ma túy (được niêm phong và ký hiệu là số 01) do T ném ra ngoài trong quá trình bị bắt quả tang, kiểm tra người T Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 gói ni lông trong suốt được dán kín, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (được niêm phong và ký hiệu là số 02), 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia N110i, màu xanh -trắng, bên trong có sim số 0962041042 và 01 xe máy nhãn hiệu Kawasaki Max, màu trắng, biển kiểm soát 48AE-005.50 (bút lục 44- 45 và từ 84 đến 135).

Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Hoàng Lê Trung H ở thôn Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện và thu giữ tại quầy pha chế 01 ống thủy tinh dài 15cm được bọc cao su một đầu, đường kính 05mm; 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy đá gồm: 01 ống thủy tinh đã được uốn cong (gọi là nỏ) được cắm vào 01 chai nhựa màu vàng, nắp màu đỏ, bên trong nắp chai nhựa có gắn 01 ống hút bằng nhựa màu vàng (bút lục 50-51).

Tại Kết luận giám định số 40/KLMT-PC09 ngày 14/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận:

- Tinh thể màu trắng (trong 03 gói nilon) được niêm phong trong bì thư ký hiệu 1 gửi giám định có tổng khối lượng là 0,3234 gam (hoàn lại sau giám định có khối lượng là 0,1870 gam), có Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục IIC, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

- Tinh thể màu trắng (trong 01 gói nilon) được niêm phong trong bì thư ký hiệu 2 gửi giám định có khối lượng là 0,0921 gam (hoàn lại sau giám định có khối lượng là 0,0555 gam), có Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục IIC, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Ti Bản cáo trạng số 38/CTr – VKS ngày 19 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố các bị cáo Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Lê Trung H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; xử phạt bị cáo Trần Thanh T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp dạng đá; sim số 0819084879; sim số 0813331279; sim số 0962041042 và toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định; tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia N110i màu xanh trắng của Hoàng Lê Trung H; chấp nhận Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Kawasaki Max, màu trắng, biển kiểm soát 48AE- 005.50 cho anh Ngô Văn H là chủ sở hữu Các bị cáo không bào chữa, không tranh luận mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt khi được nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Mil, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã truy tố, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy: Vào lúc 21 giờ 30 phút, ngày 10/6/2019 tại Bon Đ, xã Đ, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã phát hiện và bắt quả tang Trần Thanh T đang có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy là chất Methamphetamine giúp cho Hoàng Lê Trung H. Như vậy, hành vi mua bán trái phép 0,4155 gam ma túy là chất Methamphetamine của Hoàng Lê Trung H và hành vi mua bán trái phép 0,3234gam ma túy là chất Methamphetamine của Trần Thanh T (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục IIC, STT 323 nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ) đã đủ yếu tố cấu T tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Xét quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý kết luận: Các bị cáo Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Điều 251 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm” [4] Hành vi mà các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng rất xấu đến trật tự trị an tại địa phương nói riêng, đồng thời cũng là tiền đề của các tệ nạn xã hội khác. Trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm, trong đó bị cáo Hoàng Lê Trung H là người trực tiếp liên hệ và mua bán trái phép 0,4155 gam ma túy là chất Methamphetamine để kiếm lời; Trần Thanh T là người thực hành giúp Hoàng Lê Trung H thực hiện hành vi mua bán trái phép 0,3234 gam ma túy là chất Methamphetamine, được H trả công bằng việc cho sử dụng chung ma túy và 01 gói ma túy có khối lượng 0,0921 gam ma túy là chất Methamphetamine. Do đó cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội các bị cáo đã gây ra.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Hoàng Lê Trung H là người có nhân thân xấu, cụ thể: Ngày 09/5/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xử phạt 06 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản tại bản án số 14/2014/HSST, bị cáo đã được xóa án tích. Bị cáo Trần Thanh T là người có nhân thân tốt.

[6] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội; có tác dụng răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Kết quả xác minh cho thấy các bị cáo Hoàng Lê Trung H, Trần Thanh T đều không có tài sản; các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo là phù hợp.

[8] Về vật chứng của vụ án:

Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã thu giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp dạng đá; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, bên trong có 02 sim số 0819084879; 0813331279; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia N110i màu xanh trắng, bên trong có 01 sim số 0962041042; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Kawasaki Max, màu trắng, biển kiểm soát 48AE-005.50 và 0,4155 gam ma túy là chất Methamphetamine (hoàn lại sau giám định còn 0,2425 gam), Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia N110i màu xanh trắng của Hoàng Lê Trung H do sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước; đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp dạng đá, sim số 0819084879; sim số 0813331279; sim số 0962041042 và số ma túy hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp; đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Kawasaki Max, màu trắng, biển kiểm soát 48AE-005.50 của anh Ngô Văn H cho Hoàng Lê Trung H mượn nhưng anh H không biết việc H sử dụng vào việc phạm tội vì vậy Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Ngô Văn H là đúng quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Trong vụ án này còn một số vấn đề sau:

Đi với đối tượng tên T là người đặt mua ma túy của Hoàng Lê Trung H và đối tượng đã bán ma túy cho Hoàng Lê Trung H tại thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, sau khi liên lạc H đã xóa số điện thoại của 2 đối tượng này khỏi danh bạ điện thoại để tránh bị phát hiện và H cũng không nhớ được số điện thoại của người bán, người mua ma túy cho H. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh làm rõ đối tượng T, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đi với hành vi tàng trữ 0,0921 gam Methamphetamine trong người với mục đích để sử dụng nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Thanh T, Công an huyện Đắk Mil đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hoàng Lê Trung H, Hoàng Văn H, Hoàng Đức H, Công an huyện Đắk Mil đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.

Đi với anh Ngô Văn H, do không biết Hoàng Lê Trung H mượn xe máy biển kiểm soát 48AE-005.50 để sử dụng vào việc phạm tội nên không đề cập vấn đề xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Lê Trung H (tên gọi khác: B) và Trần Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Hoàng Lê Trung H (tên gọi khác: B) 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/6/2019.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh T 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/6/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; căn cứ Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Chấp nhận Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh Ngô Văn H 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Kawasaki Max, màu trắng, biển kiểm soát 48AE-005.50 (theo biên bản về việc trả lại đồ vật tài liệu ngày 03/09/2019) - Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia N110i màu xanh trắng của Hoàng Lê Trung H do sử dụng vào việc phạm tội - Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tổng hợp dạng đá, sim số 0819084879; sim số 0813331279; sim số 0962041042 và 0,2425 gam ma túy hoàn lại sau giám định.

Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/9/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ 3. Về án phí:

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc các bị cáo Hoàng Lê Trung H (tên gọi khác: B) và Trần Thanh T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo nội dung liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

605
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 40/2019/HSST ngày 16/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:40/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về