Bản án 82/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 82/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 80/2020/TLST – HS ngày 16 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm H, tên gọi khác: Không.

Sinh năm: 1980 tại huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Nơi ĐKHK thường trú: Thôn G, xã Đ, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Tạm trú tại: Xóm M1, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Phạm Văn T, con bà: Trần Thị D.

Vợ: Nguyễn Thị U và có 03 người con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam: Từ ngày 12/10/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.

(Có mặt) - Ngƣời làm chứng:

Anh Lê Ngọc H; Sinh năm: 1982.

Trú tại: Xóm T, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 21 giờ 45 phút ngày 12/10/2020, từ nguồn tin của quần chúng nhân dân, trước quán Karaoke “T” thuộc xóm L, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An (giáp với xóm T, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An) tổ công tác của Công an xã M tiến hành kiểm tra hành chính đối với Phạm H, sinh năm 1980 có nơi đăng ký thường trú tại thôn G, xã Đ, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế (Tạm trú tại xóm M1, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An). Qua kiểm tra Phạm H đã tự nguyện lấy từ trong túi quần bò bên phải, phía trước mà bị cáo đang mặc ra giao nộp 01 gói ni lon màu vàng, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá).

Tại phiên tòa bị cáo Phạm H khai nhận: Vào ngày 12/10/2020 do nghiện ma túy và có nhu cầu sử dụng, nên vào khoảng 18 giờ 30 phút bị cáo đi bộ từ quán Karaoke “T” nơi bị cáo đang làm thuê, đến khu vực nhà máy đường N, tại đó bị cáo có gặp một người đàn ông không quen biết, bị cáo hỏi mua được 01 gói ma túy đá với số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), sau khi mua được ma túy bị cáo đi bộ về lại quán Karaoke làm việc. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày bị cáo đi ra trước cổng cách quán Karaoke khoảng 20 mét để tìm nơi sử dụng ma túy đã mua được thì bị lực lượng Công an xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An kiểm tra bắt quả tang đang cất giấu ma túy trong túi quần.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại, lập ngày 13/10/2020 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xác định:

+ 01 (một) gói ni lông màu vàng, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (nghi là ma túy) có khối lượng là 0,555g (Không phẩy năm trăm năm mươi lăm gam).

Hội đồng tiến hành lấy 0,215g (Không phẩy hai trăm mười lăm gam) chất rắn dạng tinh thể màu trắng, bỏ vào trong một túi ni lông trong suốt dán kín, niêm phong trong một phong bì thư do Công an huyện Quỳ Hợp phát hành để gửi đi giám định.

Kết luận giám định số: 1420/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 17/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

“Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm Hà gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số chất rắn dạng tinh thể màu trắng thu giữ của Phạm H có khối lượng là 0,555g (Không phẩy năm trăm năm mươi lăm gam).” Bản cáo trạng số: 82/CT-VKSQH ngày 15/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Phạm H về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận và hoàn toàn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm H từ 13 tháng đến 15 tháng tù.

Buộc bị cáo Phạm H phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi đã đưa đi giám định và các bao gói niêm phong.

Bị cáo không có ý kiến, tranh luận gì thêm.

Nói lời nói sau cùng tại phiên tòa, bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Những chứng cứ xác định có tội: Căn cứ tài liệu, chứng cứ cơ quan cơ quan điều tra Công an đã thu thập tại hồ sơ vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại, kết luận giám định, lời khai và biên bản hỏi cung, lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định:

Vào hồi 21 giờ 45 phút ngày 12/10/2020 tại khu vực trước quán Karaoke “T” thuộc xóm L, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Tổ công tác Công an xã M, huyện Q kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang bị cáo Phạm H đang có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy Methamphetamine có khối lượng là 0,555 gam (Không phẩy năm trăm năm mươi lăm gam), với mục đích để sử dụng. Hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo Phạm H đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự theo truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp là có căn cứ, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất gây nghiện. Vụ án xảy ra gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội của địa phương, ma túy là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, nên cần lên cho bị cáo mức án nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân sống có ích cho xã hội và răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có bố đẻ là người có công được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến, danh hiệu tập thể anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Phạm H, do không xác định được tên tuổi và địa chỉ cụ thể, nên không đủ cơ sở để điều tra, xác minh xử lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, ... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo đang bị tạm giam, gia đình thuộc diện khó khăn, không có tài sản, công việc, nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư do Công an huyện Quỳ Hợp phát hành, được niêm phong dán kín, bên trong có chứa 0,34g ma túy (Methamphetamine) cùng vỏ, bao gói niêm phong thu giữ của Phạm H, vì ma túy là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, còn các đồ vật khác không có giá trị sử dụng.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo chịu tiền án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm H 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 12/10/2020.

2. Vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư do Công an huyện Quỳ Hợp phát hành, được niêm phong dán kín, bên trong có chứa 0,34g ma túy (Methamphetamine) cùng vỏ, bao gói niêm phong thu giữ của Phạm H.

(Vật chứng nêu trên có đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng, lập ngày 17/11/2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳ Hợp và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp)

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phạm H chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 82/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:82/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về