Bản án 81/2021/HS-ST ngày 25/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ LƯƠNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 81/2021/HS-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 70/2021/HSST ngày 05 tháng 8 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2021/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: TRẦN CHUNG T. Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 07 tháng 01 năm 1989 tại huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên; giới tính: Nam.

Nơi cư trú: Đăng ký HKTT tại xóm Đ, xã C, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn T1 (sinh năm 1962) và bà Trần Thị M (sinh năm 1964). Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 02. Vợ: Lãnh Thị Đ1 (sinh năm 1993), có 01 con sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2021, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Phú Lương. Có mặt.

Người chứng kiến: Ông Bùi Công B, sinh năm 1953. Địa chỉ: Xóm Đ, xã C, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ ngày 12/5/2021, tổ công tác công an xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, làm nhiệm vụ tại địa bàn xóm làng Phan, xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, phát hiện Trần Chung T có dấu hiệu cất giấu trái phép chất ma túy, nên yêu cầu kiểm tra, Thông đã tự giác giao nộp 01 gói giấy màu trắng trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy (Thông khai là ma túy loại heroine). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Chung T, thu giữ niêm phong vật chứng, ký hiệu bị niêm phong là A, chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Lương điều tra theo thẩm quyền.

Cùng ngày, tiến hành khám xét khẩn cấp cấp chỗ ở của Thông tại xóm Đồi Chè, xã Cổ Lũng, Cơ quan Điều tra đã phát hiện, thu giữ đầu giường trong phòng ngủ của Thông 02 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng lớp giấy màu trắng, trong mỗi gói đều có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy, số chất nghi ma túy này được niêm phong theo quy định ( ký hiệu bì T).

Tại Phòng kĩ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên, mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Trần Chung T khi bắt quả tang và khi khám xét, kết quả: khối lượng chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu là A là 0,313 gam; lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định (ký hiệu bì A1). Tổng khối lượng chất bột màu trắng trong bì niêm phong ký hiệu T là 0,132 gam; lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định (ký hiệu bì A2).

Tại Bản kết luận giám định chất ma túy số 868/KL-KTHS ngày 20/5/2021 của Phòng kĩ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: chất bột màu trắng trong các bì niêm phong ký hiệu A1, A2 gửi giám định là ma túy, loại heroine, có khối lượng lượng lần lượt là 0,313 gam và 0,132 gam. Như vậy tổng khối lượng chất ma túy loại heroine thu giữ của Trần Chung T là 0,313 + 0,132 = 0,445 gam.

Quá trình điều tra làm rõ hành vi của bị cáo như sau: bản thân Thông là người nghiện ma túy. Khoảng 11 giờ ngày 12/5/2021, Thông một mình từ nhà đi ra Quốc lộ 3 bắt xe buýt đến khu vực cầu Gia Bẩy, thành phố Thái Nguyên, mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, Thông gặp và mua của một người nam giới không quen biết một gói ma túy loại heroin với giá 400.000 đồng. Sau đó, Thông cất giấu gọi ma túy vào trong túi quần rồi đi về nhà. Thông chia gói ma túy vừa mua được ra làm ba gói nhỏ, cất 02 gói ở đầu giường trong phòng ngủ, Thông cầm một gói đi bộ ra khu vực xóm Làng Phan mục đích tìm chỗ để sử dụng thì bị tổ công tác công an xã Cổ Lũng phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng như nêu trên, 02 gói còn lại bị thu giữ khi khám xét. Về số tiền mua ma túy Thông khai do lao động mà có.

Cáo trạng số 75/CT-VKSPL ngày 04 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Trần Chung T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Chung T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu, xác định tàng trữ 0,445 gam ma túy loại Heroine trong người với mục đích để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không còn mục đích nào khác.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Chung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”:

- Căn cứ điều luật và hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; xử phạt bị cáo Trần Chung T từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về vật chứng, đề nghị xử lý theo pháp luật.

- Về án phí và quyền kháng cáo, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận, xác định việc khởi tố, truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc ban hành các quyết định tố tụng đúng quy định của pháp luật. Bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người chứng kiến anh Bùi Công B: Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia tố tụng tại phiên tòa người chứng kiến vắng mặt. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến về sự vắng mặt của người chứng kiến, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đề nghị xét xử vắng mặt người chứng kiến. Quá trình điều tra, người chứng kiến không có khiếu nại gì đối với quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng liên quan đến việc mình tham gia nên việc vắng mặt người chứng kiến tại phiên tòa không gây trở ngại cho việc xét xử. Việc Tòa án xét xử vắng mặt không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người chứng kiến anh Bùi Công B theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Chung T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã xác định:

Hồi 16 giờ ngày 12/5/2021, tại xóm Làng Phan, xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, Trần Chung T đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy loại hêroin có trọng lượng 0,313 gam. Cùng ngày khám xét chỗ ở của Thông tại xóm Đồi Chè, xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương, phát hiện thu giữ 02 gói ma túy loại heroin có trọng lượng 0,132 gam. Mục đích để sử dụng. Tổng ma túy Trần Chung T tàng trữ là 0,445 gam.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; Kết luận giám định số 868/KL-KTHS ngày 20/52021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Hành vi tàng trữ 0,445 gam Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân của bị cáo Trần Chung T đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Điều luật quy định:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine …có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Hành vi của bị cáo Trần Chung T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho đời sống kinh tế cũng như đạo đức xã hội, là nguồn gốc nảy sinh nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức được tác hại của ma túy và hậu quả của việc tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng vẫn cố tình phạm tội. Do đó, cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…..” . Xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tuy gia đình không thuộc hộ nghèo hoặc cận nghèo nhưng hiện bị cáo đang bị tạm giam nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,292 gam Heroine mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1; 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,115 gam Heroine mẫu A1 còn ại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2; 01 bì niêm phong ký hiệu A3, bên trong có 02 vỏ bì niêm phong ký hiệu A, T và vỏ giấy gói. Vật chứng trong kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Lương.

[7] Trong vụ án, còn có người nam giới đã bán ma túy cho Thông ở khu vực cầu Gia Bẩy, thành phố Thái Nguyên ngày 12/5/2021. Do Thông khai không biết rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Chung T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Lương là có căn cứ chấp nhận.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; các điều 106, 292, 299, 329, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Chung T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trần Chung T 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2021. Quyết định tạm giam bị cáo thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có 0,292 gam Heroine mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1; 01 bì niêm phong ký hiệu A2, bên trong có 0,115 gam Heroine mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A2; 01 bì niêm phong ký hiệu A3, bên trong có 02 vỏ bì niêm phong ký hiệu A, T và vỏ giấy gói.

nh trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng số 87 ngày 13 tháng 8 năm 2021 giữa Công an huyện Phú Lương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Lương.

3. Về án phí: Bị cáo Trần Chung T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2021/HS-ST ngày 25/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Lương - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về