Bản án 81/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 81/2020/HS-ST NGÀY 25/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 12/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trường S, sinh năm 1984, tại Trà V.

Nơi cư trú: ấp Tân L, xã Long S, huyện Cầu N, tỉnh Trà V; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không: Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn V, sinh năm 1959 và bà Lê Thị O, sinh năm 1962; Vợ: Tiêu Thị Mỹ V, sinh năm 1982; Có 01 con sinh năm 2006;

Tiền án: Tại bản án số 597/2011/HSST ngày 27/9/2011, bị Tòa án nhân dân TP. Biên H xử phạt 01 năm 02 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Không.

Bị bắt: Ngày 11/8/2019 (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trường S là người sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp (hàng đá). Khoảng 18 giờ, ngày 10/8/2019, tại khu vực Trung S thuộc quận 8, TP. Hồ Chí M, S gặp và mua của một người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ) 02 gói ma túy tổng hợp hàng đá với giá 4.000.000đ. Sau đó, S đem số ma túy trên về phòng trọ không số, nhà C5 thuộc tổ 2, KP4, phường Tân H, TP. Biên H cất giấu để sử dụng. Tại đây, S lấy một phần ma túy ra sử dụng cùng với Nguyễn Thị T.

Khong 08 giờ 10 phút ngày 11/8/2019, tại phòng trọ không số, nhà C5, thuộc tổ 2, KP4, phường Tân H, TP. Biên H, S đang cất giấu số ma túy tổng hợp (hàng đá) còn lại trên cống thoát nước trong nhà vệ sinh trên gác phòng trọ thì bị Công an phường Tân H kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ:

- 02 (hai) gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong gửi giám định).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei 803069031851174 của Nguyễn Trường S không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận giám định số 884/PC09-GĐMT ngày 20/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng N kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 8,0349 gam, loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng (không rõ lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Trường S. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên H tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thị T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ủy ban nhân dân phường Tân H, TP. Biên H đã ra quyết định xử phạt hành chính.

Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS-BH ngày 06/01/2020 của Viện kiểm Sát nhân dân thành phố Biên H đã truy tố bị cáo Nguyễn Trường S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trường S đã khai nhận vào khoảng 08 giờ 10 phút ngày 11/8/2019 tại phòng trọ nhà số C5, thuộc tổ 2, khu phố 4, phường Tân H, TP. Biên H; bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy (hàng đá) thì bị Công an phường Tân H phát hiện bắt quả tang.

Tại bản kết luận giám định số 884/PC09-GĐMT ngày 20/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng N kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 8,0349 gam loại Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Trường S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên H đã truy tố và viện dẫn.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; bản thân bị cáo cũng là đối tượng nghiện ma túy tổng hợp (hàng đá) nên để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo đã có hành vi mua ma túy về để sử dụng sau đó bị phát hiện bắt quả tang; hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tệ nạn xã hội khác; ngoài ra, bị cáo đã từng bị kết án và hiện tại đã có 01 tiền án tại bản án số 597/2011/HSST ngày 27/9/2011, bị Tòa án nhân dân TP. Biên H xử phạt 01 năm 02 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội thuộc tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; qua đó, thể hiện bị cáo là đối tượng liều lĩnh, có thái độ xem thường pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Do vậy, đối với bị cáo cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra nhằm mục đích giáo dục cải tạo và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có ông nội Nguyễn Văn T là liệt sĩ, bà nội Bùi Thị L được Chủ tịch nước tặng Huân chương kháng chiến hạng ba, cha ông Nguyễn Văn V là bộ đội xuất ngũ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

Đối với Nguyễn Thị T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy cùng bị cáo đã bị Ủy ban nhân dân phường Tân H ra Quyết định xử phạt 750.000đ theo Quyết định số 317/QĐ-UBND ngày 17/8/2019.

Đối với đối tượng (không rõ lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên H tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ lượng ma túy còn lại sau giám định (01 gói niêm phong số 884 ngày 20/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng N).

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei: 803069031851174 do không liên quan đến việc phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/02/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên H, tỉnh Đồng N).

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 47 của Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106; Điều 136, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trường S 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/8/2019.

2. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ lượng ma túy còn lại sau giám định (01 gói niêm phong số 884 ngày 20/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng N).

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei: 803069031851174 do không liên quan đến việc phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/02/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự TP. Biên H, tỉnh Đồng N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Trường S phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2020/HS-ST ngày 25/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về