TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 81/2019/HSST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 11 năm 2019. Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 82/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lò Văn L; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 07/3/1982; Tại tỉnh B; Nơi cư trú: Bản N, xã H, huyện B, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 01/12 phổ thông; Con ông: Lò Văn Núi (Đã chết); Con bà: Lò Thị Hoan - sinh năm 1964 (Còn sống); Vợ: Vì Thị M, con: Có 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2007; Tiền án,Tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 12/6/2019, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vì Thị M - sinh năm: 1986
Trú tại: Bản N, xã H, huyện B, tỉnh B (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ ngày 12/6/2019, Tổ công tác công an phường T làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 04, phường T, thành phố Đ, tỉnh B phát hiện Lò Văn L điều khiển xe moto biển kiểm soát 27B1 - 840.42 có dấu hiệu phạm tội về ma túy, tổ công tác đã kiểm tra người L, phát hiện trong túi quần bò xanh phía trước bên phải có 81 viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xanh đựng trong túi nilon màu xanh, loại túi có mép dính bọc ngoài bằng nilon màu đen, trong túi quần phía trước bên trái có 01 viên nén màu hồng, bọc ngoài bằng nilon màu đen. L khai các viên nén màu hồng, màu xanh L mua của một người đàn ông không quen biết với giá 1.680.000đ ở bản thái thuộc khu vực huyện B. Mục đích để bán và sử dụng. Đến ngày 12/6/2019 L mang số ma túy trên đi bán thì bị phát hiện bắt giữ.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 12/6/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và Kết luận giám định số 622/GĐ-PC45 ngày 20/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Toàn bộ các viên nén màu hồng và màu xanh thu giữ của Lò Văn L gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng là 8,52gam.
Tại bản cáo trạng số 79/CT-VKSTPĐBP ngày 24/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS, xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 8,45gam Methamphetamin (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh, 01 túi nilon màu đen; Trả lại chiếc xe moto biển kiểm soát 27B1 - 840.42, kèm chìa khóa xe cho chị Vì Thị M, trú tại: Bản N, xã H, huyện B, tỉnh B. Miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật cho bị cáo.
Bị cáo Lò Văn L không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 10 giờ, ngày 22/6/2019, tại khu vực tổ dân phố 04, phường T, thành phố Đ, Lò Văn L có hành vi cất giấu trái phép trên người 8,52 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 12/6/2019, Biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 12/6/2019, Kết luận giám định số 622/GĐ-PC54 ngày 20/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự, công an tỉnh B kết luận: Vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn L là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 8,25 gam.
Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi cất giấu trái phép chất ma túy của bị cáo, với mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời là phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Lò Văn L phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.
[2]. Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Lò Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội. Nên mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thành phố Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251/BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, thu nhập chính từ làm ruộng, ngoài ra không có nguồn thu nhập nào khác, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông dân tộc thái tại khu vực bản thái thuộc huyện B, người đàn ông tên là Thắng đã thỏa thuận mua ma túy của bị cáo, nhưng bị cáo không biết họ tên, địa chỉ của những người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Vật chứng: 8,45 gam Methamphetamine (vật chứng còn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01 mảnh nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh, 01 túi nilon màu đen không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với chiếc xe máy BKS: 27B1- 840.42, nhãn hiệu HONDA Wave RSX màu sơn đỏ đen, số khung: RLHJA 3806JY005634, số máy: JA38E - 0430059, xe đã qua sử dụng, kèm chìa khóa xe quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc xe máy trên là tài sản riêng của chị Vì Thị M, khi bị cáo lấy xe máy đi bán ma túy, chị M không biết việc L dùng xe đi bán ma túy, nên cần trả lại cho chị Vì Thị M, địa chỉ: Bản N, xã H, huyện B, tỉnh B.
[7]. Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo được miễn phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Lò Văn L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
- Xử phạt bị cáo Lò Văn L 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (12/6/2019).
2. Vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47/BLHS, điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106/ BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 8,45 gam Methamphetamine (là vật chứng còn lại sau giám định), 01 mảnh nilon màu đen, 01 túi nilon màu xanh, 01 túi nilon màu đen. Trả lại cho chị Vì Thị M, địa chỉ: Bản N, xã H, huyện B, tỉnh B chiếc xe máy BKS: 27B1- 840.42, nhãn hiệu HONDA Wave RSX màu sơn đỏ đen, kèm chìa khóa xe (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/10/2019 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).
3. Án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án 81/2019/HSST ngày 21/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 81/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về