TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 83/2019/HS-ST NGÀY 01/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2019/TLST-HS, ngày 10/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2019/QĐXXST-HS, ngày 18/9/2019 đối các bị cáo:
1. Hoàng Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 17/02/1995 tại huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn K, xã X, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn H (đã chết) và bà Hoàng Thị L; có vợ là Hứa Thị N và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý hình sự, chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc đến nay. Có mặt.
2. Hà Văn K (tên gọi khác: Không), sinh ngày 25/5/1986 tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn S và bà Lã Thị S; có vợ là Nông Thị L, chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 34/2013/HSST, ngày 20/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt bị cáo Hà Văn K 03 (ba) năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích; chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2019 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Linh Văn M, sinh năm 1993, có mặt.
Địa chỉ: Thôn N, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.
Anh Linh Văn N, sinh năm 1992, vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn N, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.
- Người chứng kiến: Ông Hoàng Văn N, sinh năm 1952, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ, ngày 03/6/2019, Tổ Công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phối hợp với Đồn Biên phòng Ba Sơn đang làm nhiệm vụ tại thôn Bản Ranh, xã Xuất Lễ, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phát hiện có nhiều người ra vào nhà Hà Văn K có biểu hiện nghi vấn phạm tội ma túy. Tổ Công tác đã tiến hành kiểm tra, tại thời điểm kiểm tra trong phòng ngủ nhà Hà Văn K còn có Hoàng Văn T, trên giường có 01 túi nilon màu trắng có chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy hêrôin. T khai nhận đấy là ma túy hêrôin T mua ngày 03/6/2019 của một người phụ nữ tên là L ở dốc Phai Món, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn với giá 1.000.000đồng, mục đích mua về sử dụng và cùng K bán kiếm lời.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong đựng chất bột màu trắng;
- 01 (một) diện thoại di động MI màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 866001036297829 của Hoàng Văn T;
- 800.000đồng (tám trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Khám xét khẩn cấp tại nhà Hà Văn K phát hiện thu giữ:
- 01 (một) kéo sắt có cán màu hồng;
- 01 (một) quyển vở có bìa màu hồng ghi dòng chữ NATURE đối tượng dùng các mảnh giấy xé từ quyển vở này để gói ma túy;
- 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 353419/04/967350/7;
- 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 359583/05/954792/9;
- 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu tím, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 355862/01/708110/4;
- 01 (một) điện thoại di động MASSTEL màu đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 354391050813398;
- 01 (một) điện thoại di động VIETTEL màu đen viền xanh, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 357615048872877;
- 01 (một) điện thoại di động ZIP MOBILE có mdel: ZIP 1.8-2 màu đen xanh, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 846170030139165;
- 01 (một) điện thoại di động MASSTEL C123 màu đỏ đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863997021951655, IMEI2: 863997021951663;
- 03 (ba) mảnh giấy có diện khoảng 2,5 x 2,5 cm;
Tại cơ quan điều tra các bị cáo khai nhận: T và K có mối quan hệ họ hàng. T thường đến nhà K chơi. Do biết K có chỗ mua ma túy, T nảy sinh ý định mua ma túy về để bán kiếm lời. T bàn bạc với K là T sẽ bỏ tiền ra rồi cùng K mua ma túy về chia thành từng gói nhỏ bán lại cho các con nghiện kiếm lời. Toàn bộ tiền bán ma túy, K sẽ đưa cho T, sau đó T sẽ trả tiền công cho K bằng ma túy để sử dụng, K đồng ý.
Ngày 25, 26 và 27/5/2019, T cùng K từ nhà của K đi ra dốc Phai Món, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn gặp một người phụ nữ tên L (khoảng 60 tuổi, không rõ họ, địa chỉ). Trước khi đi mua ma túy, K sử dụng điện thoại di động của T để liên lạc và hẹn gặp người phụ nữ tên L. Khi đến đầu ngõ dốc Phai Món, Thịnh đưa cho K 1.000.000đồng (một triệu đồng) để mua ma túy. K một mình đi vào ngõ, tìm gặp L còn T đứng ở ngoài ngõ chờ. Sau khi mua được ma túy cả hai cùng về nhà K, cùng nhau chia ma túy ra thành từng gói nhỏ. Mỗi lần chia được khoảng từ 20 – 40 gói, bán giá 100.000đồng/gói.
Từ ngày 28 - 30/6/2019, T một mình đi mua ma túy với L, mỗi lần mua từ 500.000đồng đến 1.000.000đồng. Khoảng 14 giờ ngày 03/6/2019, T gọi điện cho L trước rồi từ nhà K đến khu vực dốc Phai Món, phường Hoàng Văn Thụ để gặp L mua 1.000.000đồng tiền ma túy. L đồng ý. Sau khi mua về T và K chia ra thành các gói nhỏ để K bán lại cho các đối tượng nghiện kiếm lời thì bị bắt quả tang như đã nêu trên.
Hoàng Văn T và Hà Văn K khai đã được bán ma túy cho những người sau:
- Bán cho Linh Văn M, sinh năm 1993, trú tại: thôn N, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nhiều lần mỗi lần 01 – 02 gói, mỗi gói giá 100.000đồng – 200.000đồng;
- Bán cho Linh Văn N, sinh năm 1992; thôn N, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nhiều lần, mỗi lần 01 gói, mỗi gói giá 100.000đồng;
- Bán cho Linh Văn M nhiều lần, sinh năm 1991, trú tại: Thôn B, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, mỗi lần 01 – 02 gói, mỗi gói giá 100.000đồng – 200.000đồng;
- Bán cho Linh Văn L, sinh năm 1987, thôn N, xã X, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nhiều lền, mỗi lần 01 gói, mỗi gói giá 100.000đồng;
Ngoài ra, Th và K còn bán cho 01 người đàn ông tên Q, khoảng 40 tuổi, nhà ở Bản V, xã C, huyện C 01 gói, giá 50.000đồng và bán cho nhiều người khác nhưng không biết tên, địa chỉ.
Tại bản kết luận giám định số 195/KL-PC09, ngày 06/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng đựng trong túi nilon màu trắng, niêm phong của Công an huyện Cao Lộc gửi giám định đều là chất ma túy Hêrôin, có tổng khối lượng 1,216 gam;
Tại bản Cáo trạng số 79/CT-VKS, ngày 06/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố các bị cáo Hoàng Văn T và Hà Văn K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như đã nêu trên. Các bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng cho bản thân và kiếm lời các bị cáo đã thường xuyên ra dốc Phai Món, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn gặp một người phụ nữ tên L để mua ma túy, thông thường mua từ 500.000đồng (năm trăm nghìn đồng) đến 1.000.000đồng (một triệu đồng) mang về chia ra thành các gói nhỏ bán cho các đối tượng nghiện. Các bị cáo thừa nhận được bán cho các đối tượng nghiện như Linh Văn M, Linh Văn N, Linh Văn M, Linh Văn L nhiều lần, mỗi lần từ 01 – 02 gói, giá mỗi gói từ 100.000đồng đến 200.000đồng.
Các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tuy nhiên, do các bị cáo đều nghiện ma túy nên đã có hành vi sai trái với pháp luật.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn T và Hà Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 08 (tám) đến 09 (chín) năm tù giam; bị cáo Hà Văn K từ 07 (bẩy) đến 08 (tám) năm tù giam. Về hình phạt bổ sung đề nghị áp dụng không áp dụng đối với các bị cáo.
Về vật chứng:
- Tịch thu tiêu huỷ các vật chứng sau: Toàn bộ số ma túy đã thu giữ; 01 (một) kéo sắt; 01 (một) quyển vở có bìa màu hồng; 03 (ba) mảnh giấy;
- Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 08 chiếc điện thoại di động do các đối tượng nghiện cầm cố mua ma túy và các bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy.
- Tịch thu số tiền 800.000đồng của bị cáo Hoàng Văn T do phạm tội mà có để sung công quỹ Nhà nước.
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận, các bị cáo nhất trí với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận.
Khi nói lời nói sau cùng các bị cáo đều xin Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội, làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 03/6/2019; phù hợp với bản kết luận giám định số 195/KL-PC09 ngày 06/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn. Do đó có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Hoàng Văn T và Hà Văn K có hành vi mua 1,216 gam ma túy hêrôin về bán nhiều lần cho nhiều đối tượng nghiện kiếm lời. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố đối với các bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2, Điều 251 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Hành vi của các bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng vì đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Các bị cáo đều đủ tuổi trưởng thành, đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì nghiện ma túy các bị cáo đã phạm tội. Để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá về vai trò, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của từng bị cáo như sau:
[3] Đây là vụ án đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này, bị cáo Hoàng Văn T là người có vai trò chính, bị cáo là người chuẩn bị tiền và là người chủ động bàn bạc với Hà Văn K mua ma túy về bán. Bị cáo Hà Văn K là người giữ vai trò thứ yếu, tiếp nhận ý chí của T, cùng T đi mua ma túy, K là người bán lẻ ma túy, tiền bán được giao lại cho T và được T trả công bằng ma túy.
[4] Về tình tiết tăng nặng: Cả 02 bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cả hai bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Do vậy, cả hai bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Cả hai bị cáo đều là người nghiện ma túy. Năm 2013, bị cáo Hà Văn K đã bị Tòa án xét xử về tội mua bán trái phép chất ma túy, mặc dù đã được xóa án tích. Nhưng xác định cả hai bị cáo đều là người có nhân thân xấu.
[7] Trong vụ án này, bị cáo Hoàng Văn T là người giữ vai trò chính, có nhân thân xấu nên phải chịu mức án cao hơn bị cáo K. Tuy nhiên, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.
[8] Đối với bị cáo Hà Văn K có nhân thân xấu nhưng giữ vai trò thứ yếu nên chịu mức án thấp hơn bị cáo T. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội nên xét thấy cần giảm nhẹ phần nào hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên tâm cải tạo.
[9] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5, Điều 251 của Bộ luật Hình sự, các bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Xét thấy các bị cáo đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tài sản đảm bảo thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[10] Về vật chứng: Đối với số ma túy thu giữ của các bị cáo là vật Nhà nước cấm; 01 (một) kéo sắt; 01 (một) quyển vở có bìa màu hồng; 03 (ba) mảnh giấy là công cụ để chia và gói ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 08 chiếc điện thoại thu giữ của các bị cáo do các đối tượng nghiện cầm cố mua ma túy và các bị cáo sử dụng vào việc liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu, hóa giá sung công quỹ Nhà nước. Số tiền 800.000đồng thu giữ của bị cáo Hoàng Văn T là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
[11] Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[12] Đối với đối tượng tên L bán ma túy cho các bị cáo do không rõ họ, địa chỉ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét.
[13] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[14] Trong quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các bị cáo cũng không khiếu nại về quá trình tiến hành tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên nên các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b, khoản 2, Điều 251; điểm s, khoản 1, điều 51; Điều 38; Điều 58; điểm a, b, c khoản 1, Điều 47 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo;
Căn cứ vào điểm a, b, khoản 2, Điều 106; khoản 2, Điều 136; Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Hoàng Văn T, Hà Văn K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Hình phạt:
- Hình phạt chính:
+ Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 08 (tám) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/6/2019.
+ Xử phạt bị cáo Hà Văn K 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/6/2019.
- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với các bị cáo Hoàng Văn T, Hà Văn K.
3. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) phong bì niêm phong dán kín ghi chữ “CÔNG AN HUYỆN CAO LỘC” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh Hà, trợ lý giám định và hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới. Bên trong có 1,182 gam hêrôin;
+ 01 (một) kéo sắt có cán màu hồng thu giữ trong ngăn kéo tủ phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 03 (ba) mảnh giấy có diện khoảng 2,5 cm x 2,5 cm thu giữ trong ngăn kéo tủ phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 01 (một) quyển vở có bìa màu hồng ghi dòng chữ NATURE đối tượng dùng các mảnh giấy xé từ quyển vở này để gói ma túy, thu giữ trong ngăn kéo tủ phòng ngủ của Hà Văn K;
- Tịch thu, hóa giá sung công quỹ Nhà nước các vật chứng sau:
+ 01 (một) diện thoại di động MI màu đen đã qua sử dụng, số IMEI: 866001036297829 của Hoàng Văn T;
+ 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 353419/04/967350/7 thu giữ trong phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 359583/05/954792/9 thu giữ trong phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 01 (một) điện thoại di động NOKIA màu đen tím, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 355862/01/708110/4 thu giữ trong phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 01 (một) điện thoại di động MASSTEL màu đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 354391050813398 thu giữ trong phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 01 (một) điện thoại di động VIETTEL màu đen viền xanh, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 357615048872877 thu giữ trong phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 01 (một) điện thoại di động ZIP MOBILE có mdel: ZIP 1.8-2 màu đen xanh, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI: 846170030139165 thu giữ trong phòng ngủ của Hà Văn K;
+ 01 (một) điện thoại di động MASSTEL C123 màu đỏ đen, cũ đã qua sử dụng, có số IMEI1: 863997021951655, IMEI2: 863997021951663 thu giữ trong phòng ngủ của Hà Văn K;
- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 800.000đồng (tám trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thu giữ của bị cáo Hoàng Văn T, đựng trong một phong bì niêm phong dán kín ghi chữ “CÔNG AN HUYỆN CAO LỘC” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hứa Thành Quang, trợ lý giám định và hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự tại phần giáp lai mới.
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/9/2019 giữa Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn).
4. Về án phí: Buộc các bị cáo Hoàng Văn T và Hà Văn K, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Linh Văn M. Vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Linh Văn N. Các bị cáo, anh M có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Anh N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 83/2019/HS-ST ngày 01/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 83/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về