Bản án 29/2019/HSST ngày 23/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 29/2019/HSST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 33/2019/HSST ngày 18 tháng 4 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Thị H, sinh năm 1982 tại Thái Nguyên Nơi cư trú: Thôn Đ, xã D, huyện B, tỉnh Bình Phước. Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Sán Chí; giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Việt Nam; con ông Trần Văn P và bà Hầu Thị K; bị cáo có chồng và 02 người con lớn nhất sinh năm 2008 và nhỏ nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/01/2019 cho đến nay (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Đinh Ngọc H1, sinh năm 1970 (Có mặt)

Chỗ ở hiện nay: Nhà tạm giữ Công an huyện Bù Đăng.

2. Chu Văn H2, sinh năm 1993 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ThônA, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

3. Hoàng Văn H3, sinh năm 1994 (Vắng mặt)

Địa chỉ: ThônA, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng12 giờ 20 phút ngày 10/01/2019, Công an huyện Bù Đăng phối hợp cùng Công an xã Đ kiểm tra bắt quả tang Trần Thị H đang có hành vi bán ma túy cho Hoàng Văn H3 tại nhà của H thuộc thôn Đ, xã Đ, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Kiểm tra phát hiện trong túi quần H3 có 01 gói giấy bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng (nghi là heroin); kiểm tra trên người H phát hiện một tờ tiền polime mệnh giá 200.000 đồng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của H phát hiện 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa 05 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng (nghi là heroin). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong thu giữ tang vật để điều tra.

Quá trình làm việc H khai nhận số chất bột màu trắng trên là ma túy H vừa bán cho H3 một gói số còn lại H cất giữ để bán cho các con nghiện để kiếm lời. Cụ thể trước đó bán cho Hoàng Văn H3 03 lần gần nhất là ngày 08/01/2019, bán cho Đinh Ngọc H1 01 lần, bán cho Chu Văn H2 04 lần không nhớ ngày cụ thể mỗi lần từ 100.000đ đến 300.000 đồng.

Ti bản kết luận giám định số 09/2019/GĐ-MT ngày 18/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:

Chất màu trắng có trong 01 gói giấy bạc (ký hiệu M1 thu trong túi quần của Hoàng Văn H3) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0550 gam, loại Heroin.

Chất màu trắng có trong 05 gói giấy bạc (ký hiệu M2 thu tại nhà Trần Thị H) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,7208 gam, loại Heroin.

- Về vật chứng vụ án:

+ 01 tờ tiền polime mệnh giá 200.000đ và số ma túy còn lại sau giám định đã được niêm phong Cơ quan điều tra đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Đăng để phục vụ việc truy tố, xét xử.

Ti bản cáo trạng số: 35/CT-VKS-BĐ ngày 18/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáoTrần Thị H về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b,c Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa đại diện Viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thị H phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy”; về hình phạt:

Áp dụng điểm b,c Khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Thị H từ 04 đến 05 tù.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo qui định của pháp luật.

Bị cáo Trần Thị H thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Li nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Từ khoảng tháng 11/2018 đến ngày 10/01/2019, Trần Thị H đã đi đến khu vực “LM” thuộc huyện T, huyện Đ mua mà túy về rồi bán lại cho các con nghiện cụ thể bán cho Hoàng Văn H3 04, bán cho Đinh Ngọc H1 01 lần, bán cho Chu Văn H2 04 lần không nhớ ngày cụ thể mỗi lần từ 100.000đ đến 300.000 đồng thu lời bất chính số tiền 2.000.000 đồng.

Qua giám định chất Chất màu trắng (ký hiệu M1, M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng trọng lượng (khối lượng) là 0,7758 gam, loại Heroin Từ phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Trần Thị H đã phạm vào “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm b,c Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 251. Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Bộ luật hình sự 2015 quy định.

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên:

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Nhận thức rõ được mọi hành vi liên quan đến ma túy là vi phạm pháp luật, là nguyên nhân có thể gây ra nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác nhưng vẫn cố ý phạm tội, là thể hiện thái độ coi thường pháp luật.

Xét toàn bộ vụ án, tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Bị cáo đang nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, tự nguyện tác động gia đình nộp lại số tiền thu lợi bất chính nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Như vậy, bị cáo đủ điều kiện hưởng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 Bộ luật hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Khoản 1 Điều 47Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015. Cần tiêu hủy Số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 02 phong bì niêm phong số 18/2019/GĐ-MT ngày 18/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước;

Cần tịch thu sung công quỹ số tiền 2.200.000 đồng là tiền thu lợi bất chính.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Đi với đối tượng Hoàng Văn H2 do số lượng ma túy cất giữ không đủ khối lượng để xử lý hình sự, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý hành chính nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với Đinh Ngọc H1 đã bị xét xử 15 tháng tù về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuy” theo bản án số 14 ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng.

Đi với Chu Văn H2 cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ yêu cầu Công an xã Đường 10 lập hồ sơ giáo dục tại địa phương nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với nguồn gốc ma túy bị cáo khai mua của một người không rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau nên Hội đồng xét xét xử không xem xét.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiển sát tham gia phiên tòa là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Trần Thị H phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b,c Khoản 2 Điều 251, điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thị H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/01/2019.

[2] Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 47, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tiêu hủy Số ma túy còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong ký hiệu 18M2 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước;

Tuyên tịch thu sung công quỹ số tiền 2.200.000 đồng là tiền thu lợi bất chính.

(Theo biển bản giao nhận vật chứng số 0009675 ngày 25/02/2019 và 0009XXX ngày 18/4/2019 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng)

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Thị H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương, nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2019/HSST ngày 23/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:29/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về