Bản án 81/2018/HS-ST ngày 17/05/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THÀNH, TỈNH BÀ RỊA- VŨNG TÀU

BẢN ÁN 81/2018/HS-ST NGÀY 17/05/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 17 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 59/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Thanh S; tên gọi khác: không, Sinh năm 1982 tại Bà Rịa- Vũng Tàu; Nơi cư trú: Thôn 6, xã L, thành phố T, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn M và bà: Lê Thị Qu; có vợ là Phạm Thị Thu M; có 2 con: Con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo: luật sư Đỗ Văn H, văn phòng luật sư A thuộc đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa- Vũng tàu (có mặt)

Bị hại: Đoàn Văn Ph , sinh năm 1983; HKTT: Thôn 6, xã L, thành phố T, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (đã chết).

Đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Phạm Thị Hồng C (vợ của anh Ph), sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn 6, xã L, thành phố T, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (có mặt).

Ông Đoàn Văn C (cha đẻ của anh Ph), sinh năm 1949; địa chỉ Thôn 6, xã L, thành phố T, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25/6/2017, sau khi nhậu xong tại xã L, thành phố T, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Phạm Thanh S, anh Đoàn Văn Ph và anh Lê Ngọc Đ cùng với anh D, anh Ch (không rõ địa chỉ) đi uống cà phê ở xã T, huyện Tân Thành. Khoảng 19 giờ cùng ngày, S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 72C1- 589.01 với tốc độ nhanh chở anh Ph ngồi phía sau lưu thông trên đường Châu Đức - Hội Bài theo hướng từ xã T đi xã H, huyện Tân Thành. Khi đến khu vực đoạn đường cong thuộc địa phận thôn P, xã T, huyện Tân Thành S điều khiển xe xuống dốc. Lúc này có 01 chiếc xe tải (không rõ biển số) đi ngược chiều lên; thấy vậy S hoảng sợ, không làm chủ được tay lái nên điều khiển xe đi lên lề phải (vỉa hè) khiến xe của S sắp bị ngã xuống đường làm anh Ph ngồi phía sau bị ngã xuống khỏi xe, đầu đập vào cột điện rồi rơi xuống vực. Hậu quả anh Ph bị thương nặng được đưa đi cấp cứu và sau đó tử vong.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 191/PC54-Đ4, ngày 13/7/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định: Rách da đầu đỉnh phải hình sao, kích thước 9 cm x 4,5 cm; chảy máu dưới da đầu đỉnh- thái dương phải; vỡ sọ đỉnh phải, kích thước 12 cm x 8 cm; dập, chảy máu não đỉnh phải, tổ chức não trào ra ngoài hộp sọ qua nơi vỡ.

2. Nguyên nhân chết: Đoàn Văn Ph chết do chấn thương sọ não: Vỡ sọ, dập não. Vật tác động gây chấn thương hộp sọ não là vật tày, diện tiếp xúc rộng tác động trực tiếp vào vùng đầu cơ thể nạn nhân từ trên xuống dưới, chếch từ trước ra sau.

Tại bản cáo trạng số 74/CT-VKS ngày 27 tháng 3 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu truy tố Phạm Thanh S về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo vẫn khai nhận như tại cơ quan điều tra.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự thỏa thuận giữa đại diện hợp pháp của bị hại và bị cáo: Phạm Thanh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi 02 con của bị hại tổng số tiền 100.000.000 đồng; phương thức cấp dưỡng định kỳ 20 triệu đồng/năm vào ngày 30/6 hàng năm.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo phát biểu: Truy tố và xét xử bị cáo Phạm Thanh S với hành vi như bản cáo trạng của VKS đã nêu là phù hợp quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi gây án bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20 triệu đồng. Tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; giao nộp tiền cấp dưỡng cho con của bị hại số tiền 20 triệu đồng; gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, vợ bị cáo bị bệnh tâm thần; gia đình có công với nước. Đề nghị xử phạt tù, nhưng cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa bị cáo không tranh luận gì, yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Phạm Thanh S khai nhận hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra. Đó là phù hợp cả về thời gian, địa điểm phạm tội, phù hợp viện dẫn của bản cáo trạng; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ ngày 25/6/2017 trên đường Châu Đức- Hội Bài thuộc địa phận thôn P, xã H, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, Phạm Thanh S có giấy phép lái xe hạng A1, điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 72 C1- 589.01 phía sau chở theo anh Đoàn Văn Ph. Do không làm chủ tốc độ và làm chủ tay lái nên đã gây tai nạn giao thông. Hậu quả, làm anh Ph bị thương nặng và sau đó tử vong. Hành vi điều khiển xe của Phạm Thanh S là vi phạm khoản 23 Điều 8 Luật giao thông đường bộ năm 2008.

Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội hướng dẫn áp dụng những quy định có lợi cho người phạm tội, thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo cần áp dụng khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự năm 1999 có lợi hơn so với mức hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định: Áp dụng khoản 1 điều 202 Bộ Luật hình sự năm 1999 để xử lý các bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật.

Hành vi lái xe gây tai nạn, làm chết người của Phạm Thanh S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tính mạng của người khác mà pháp luật bảo vệ; Gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn. Vì vậy việc xử lý nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội có tác dụng phòng ngừa chung.

Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét tình tiết: Trong quan hệ cuộc sống thường ngày giữa bị cáo và bị hại là bạn bè hàng xóm thân quen; chính vì vậy bị hại đã giao xe mô tô cho bị cáo điều khiển trong vụ án dẫn đến gây tai nạn.

Sau khi vụ án xảy ra bị cáo đã tự nguyện hỗ trợ, bồi thường 1 phần cho gia đình bị hại số tiền 20 triệu đồng; thường xuyên đi lại thăm hỏi và động viên gia đình bị hại. Tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; chủ động cấp dưỡng 1 phần tiền nuôi con của bị hại (giao nhận tại phiên tòa 20 triệu đồng); đại diện hợp pháp của bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt; gia đình bị hại có công với nước (bác ruột của bị cáo ông Phạm Văn N là liệt sỹ); Vợ bị cáo đang điều trị bệnh tâm thần, bản thân bị cáo là lao động chính trụ cột gia đình. Vì vậy cần giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo.

Từ phân tích, nhận định trên, Hội đồng xét xử xét rằng: Không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà để giám sát, giáo dục tại cộng đồng cũng đủ điều kiện giúp bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra Phạm Thanh S đã tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 20 triệu đồng, tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại bà Phạm Thị Hồng C chỉ yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ cấp dưỡng để nuôi 2 con của bị hại là: Đoàn Khanh D và Đoàn Khả M với tổng số tiền 100 triệu đồng; số tiền này bị cáo sẽ giao nộp mỗi năm 20 triệu đồng vào ngày 30/6, cụ thể: Số tiền 20 triệu đồng đã giao nhận tại phiên tòa được tính để khấu trừ tiền cấp dưỡng của năm 2018; số tiền 80 triệu đồng còn lại tiếp tục thực hiện giao nộp theo định kỳ nêu trên; ngoài ra không yêu cầu gì thêm. Yêu cầu của bà Phạm Thị Hồng C đã được bị cáo S chấp nhận toàn bộ. Hội đồng xét xử xét: Yêu cầu bị cáo phải cấp dưỡng để nuôi con của đại diện hợp pháp bị hại là chính đáng. Tại phiên tòa các bên đã thỏa thuận được với nhau về mức cấp dưỡng và định kỳ giao tiền; sự thỏa thuận phù hợp quy định của pháp luật cần ghi nhận.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm; bị cáo, đại diện hợp pháp bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh S phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 202; Điểm b, p khoản 1 Điều 46; khoản 2 Điều 46 và Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh S 15 (mười lăm) tháng tù; nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án.

Giao Phạm Thanh S cho chính quyền UBND xã L, thành phố T, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Phạm Thanh S thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự .

Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều: 584, 585, 591 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận sự thỏa thuận: Bị cáo Phạm Thanh S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của bị hại Đoàn Văn Ph là: Đoàn Khanh D, sinh ngày 17/4/2011 và Đoàn Khả M, sinh ngày 12/12/2015 với tổng số tiền 100 triệu đồng (Một trăm triệu đồng); nhưng được trừ số tiền 20 triệu đồng (Hai mươi triệu đồng) hai bên đã giao nhận tại phiên tòa. Số tiền còn lại Phạm Thanh S phải giao nộp theo định kỳ như sau: Ngày 30/6/2019 số tiền 20 triệu đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 30/6/2020 số tiền 20 triệu đồng (Hai mươi triệu đồng); ngày 30/6/2021 số tiền 20 triệu đồng (Hai mươi triệu đồng) và ngày 30/6/2022 số tiền 20 triệu đồng (Hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì bên phải thi hành án còn phải trả cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Buộc Phạm Thanh S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 5.000.000 (Năm triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 81/2018/HS-ST ngày 17/05/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:81/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về