TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 12/2017/HSST NGÀY 31/08/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 31 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 10/2017/HSST ngày 11 tháng 7 năm 2017 đối với:
Bị cáo Phạm Đắc N, sinh ngày 24/3/1997; sinh, trú quán: thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: cơ khí; trình đ văn hóa: 12/12; con ông Phạm Ngọc B, sinh năm 1967 và bà Phan Thị N, sinh năm 1973; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; đang tại ngoại, có mặt tại phiên toà.
- Người bị hại: Bà Trương Thị K, sinh năm 1929 (Đã chết).
Địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
- Người đại diện hợp pháp cho người bị hại bà Trương Thị Khá: Bà Trần Thị Lệ T, sinh năm 1958.
Địa chỉ: Thôn Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Trần Thanh V, sinh năm 1964. (là người khuyết tật thu c dạng thần kinh, tâm thần; mức độ đặc biệt nặng).
Địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện hợp pháp cho ông Trần Thanh V có bà Trần Thị Lệ T, sinh năm 1958. (là chị ruột của ông Trần Thanh V).
Địa chỉ: Thôn Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
Bà T có đơn xin xét xử vắng mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Phạm Đắc N bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Bị cáo Phạm Đắc N có giấy phép lái xe hạng A1, số 490158109023 không thời hạn, do Sở Giao thông vận tải tỉnh Quảng Nam cấp ngày 02/7/2015.
Vào chiều ngày 15/4/2017, bị cáo N cùng hai người bạn uống hết 1.5 lít rượu. Đến khoảng 19 giờ ngày 15/4/2017, bị cáo N điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại xe Exciter, biển kiểm soát 92G1-206.14 chạy trên đường ĐT611 từ xã Quế Cường lên huyện Hiệp Đức. Bị cáo N điều khiển xe chạy ở phần đường bên phải, theo hướng Hương An - Đông Phú với tốc đ khoảng 60km/h. Khi đến địa phận thôn Phú Đa, xã Quế Châu, bị cáo gặp một xe ô tô tải chạy ngược chiều, bật đèn pha làm N không quan sát rõ phía trước. Khi xe ô tô tải đi qua, bị cáo N mới phát hiện bà Trương Thị K đang dắt bộ chiếc xe đạp đi qua phần đường bên phải hướng Hương An - Đông Phú. Bánh trước của xe đạp đã chạm vào lề đường bên phải, bánh sau của xe đạp còn nằm trên phần đường bên phải hướng Hương An - Đông Phú, thân xe đạp nằm ngang so với đường ĐT611. Do không quan sát kĩ, khoảng cách gần và không làm chủ tốc độ, nên xe mô tô do N điều khiển đã tông vào bánh sau của xe đạp, gây tai nạn làm bà K ngã văng nằm trên nắp cống thoát nước ở lề đường bên phải theo hướng Hương An - Đông Phú, xe mô tô của N trượt dài một đoạn và ngã nằm ở giữa tim đường. Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo N dựng xe mô tô và điều khiển xe bỏ chạy khỏi hiện trường. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Công an huyện Quế Sơn gọi điện yêu cầu thì N mới đem xe đến hiện trường vụ án để làm việc. Riêng bà K bị thương quá nặng, được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng nhưng bà K đã chết vào ngày 16/4/2017. Xe mô tô 92G1 - 206.14 và xe đạp bị hư hỏng.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 36/GĐPY.PC54 ngày 27/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam, kết luận: “Bà Trương Thị K chết vào ngày 16/4/2017 tại Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng trong vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 15/4/2017, tại đường ĐT611 thuộc thôn Phú Đa, xã Quế Châu do đa chấn thương, chấn thương sọ não kín, tụ máu nội soi, phù não, chèn ép não, gãy đầu dưới hai xương cẳng tay phải, suy hô hấp, suy tuần hoàn không hồi phục”.
Vào lúc 21 giờ 20 phút ngày 15/4/2017, Công an huyện Quế Sơn đã tiến hành đo nồng đ cồn trong khí thở của bị cáo N, kết quả là 0,498mg/l khí thở.
Ngày 09/5/2017, H i đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân huyện Quế Sơn kết luận giá trị thiệt hại của xe mô tô 92G1 - 206.14 là 3.511.000 đồng, giá trị thiệt hại xe đạp là 92.000 đồng. Tổng giá trị thiệt hại là 3.603.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 09/KSĐT-TA ngày 11 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Phạm Đắc N về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm b, c khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Đắc N mức án từ 18 đến 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Phạm Đắc N cho Ủy ban nhân dân xã Quế Cường, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách án treo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên toà, bị cáo Phạm Đắc N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xác định:
Sau khi uống rượu với nồng độ cồn đo được trong hơi thở của bị cáo Phạm Đắc N vào lúc 21 giờ 20 phút ngày 15/4/2017 là 0,496mg/l khí thở.
Vào khoảng 19 giờ ngày 15/4/2017, bị cáo N điều khiển xe môtô biển kiểm soát 92G1 - 206.14 chạy trên đường ĐT611 theo hướng Hương An - Đông Phú, với tốc độ 60km/h. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn Phú Đa, xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, do không làm chủ tốc độ, thiếu quan sát, xử lý tình huống kém nên xe môtô 92G1 - 206.14 do bị cáo N điều khiển đã tông vào bánh sau xe đạp của bà Trương Thị K, gây tại nạn làm bà K chết. Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo N đã dựng xe môtô 92G1 - 206.14 và điều khiển xe bỏ chạy khỏi hiện trường. Tổng tài sản bị thiệt hại là 3.603.000 đồng.
Với hành vi nêu trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Phạm Đắc N vi phạm Luật giao thông đường bộ gây hậu quả nghiêm trọng nên đã phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 09/KSĐT-TA ngày 11/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Phạm Đắc N đã được học Luật giao thông đường bộ, được cấp giấy phép lái xe theo quy định nên nhận thức rõ xe môtô khi đang lưu thông trên đường là nguồn nguy hiểm cao độ, cần phải tuyệt đối tuân thủ các quy tắc an toàn giao thông và bị cáo biết rõ quy định của pháp luật về cấm điều khiển xe môtô, xe máy khi đã sử dụng bia rượu. Thế nhưng, bị cáo N vẫn bất chấp quy định này của pháp luật, điều khiển xe môtô tham gia giao thông trong tình trạng nồng độ cồn trong hơi thở của bị cáo vượt mức cho phép (0,496mg/l khí thở) d n đến không làm chủ tốc độ, không chú ý quan sát và xử lý tình huống kém nên gây tai nạn làm bà K chết. Sau khi tai nạn xảy ra, bị cáo N đã điều khiển xe bỏ chạy khỏi hiện trường do hoảng sợ nhưng sau đó đã điện báo cho gia đình và bị cáo N cũng đã quay lại hiện trường tai nạn để giải quyết. Hành vi của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến trật tự giao thông tại địa phương. Trong vụ án này lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xem xét để xử phạt bị cáo mức án tương xứng với mức độ lỗi, hành vi phạm tội và hậu quả đã gây ra, thể hiện được tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội.
Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo N có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã cùng gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại và đại diện gia đình người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có ông nội ruột tên Phạm Văn Đ là liệt sĩ, được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng ba và bằng Tổ quốc ghi công, bà nội ru t tên Nguyễn Thị B được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Hiện nay, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, ba bị cáo tên Phạm Ngọc B bị khuyết tật, thường xuyên đau ốm có xác nhận của chính quyền địa phương. Từ những tình tiết đó, xét thấy cần áp dụng điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt khi lượng hình và không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần giao bị cáo về chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát và giáo dục, tạo điều kiện cho bị cáo giúp ích cho gia đình và xã hội, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra, bà Trần Thị Lệ T đại diện gia đình nạn nhân Trương Thị K kê khai chi phí mai táng hết số tiền 64.917.000 đồng. Bị cáo N và gia đình đến thăm hỏi, bồi thường số tiền 45.000.000 đồng. Gia đình người bị hại đã có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Tại phiên tòa, đại diện gia đình người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng: Xe môtô biển kiểm soát 92G1 - 206.14 và xe đạp thu giữ tại hiện trường, đến nay Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Sơn đã giao trả lại cho các chủ sở hữu đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Đắc N phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”;
Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 60 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Đắc N 18 (Mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 (Ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (31/8/2017).
Giao bị cáo Phạm Đắc N cho Uỷ ban nhân dân xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách án treo.
Án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) bị cáo Phạm Đắc N phải chịu.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/8/2017). Riêng người đại diện hợp pháp cho người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 12/2017/HSST ngày 31/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 12/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về