Bản án 80/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CỬA LÒ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 80/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Cửa Lò xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 69/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 13/11/2020, giữa:

- Nguyên đơn: chị Lê Thị H, sinh năm 1986. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt Nơi cư trú: Khối V (khối 1 cũ), phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1988. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Nơi ĐKHKTT: Khối H, phường N, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.

Hiện đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc số II, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 05/8/2020, tại bản tự khai nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn T có đăng ký kết hôn ngày 08/7/2009 tại UBND phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Do không tìm hiểu về nhau nên sau khi kết hôn được hai năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng về tính cách và quan điểm sống. Vợ chồng đã được chính quyền địa P hòa giải nhưng không có kết quả. Do vợ chồng không còn tình cảm, để sớm ổn định cuộc sống cho cả hai, chị Lê Thị H yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

- Về quan hệ con chung: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn T có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh P, sinh ngày 26/10/2009. Nếu ly hôn, chị Lê Thị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Thanh P. Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/8/2020, chị H yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung tùy vào mức thu nhập nhưng tại bản tự khai đề ngày 22/10/2020, chị H đề nghị tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn T.

- Về quan hệ tài sản chung và khoản nợ: Chị Lê Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T và chị Lê Thị H có đăng ký kết hôn ngày 08/7/2009 tại UBND phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn được hai năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung. Nay vợ chồng không còn tình cảm, chị Lê Thị H xin được ly hôn anh hoàn toàn đồng ý.

- Về quan hệ con chung: anh Nguyễn Văn T và chị Lê Thị H có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh P, sinh ngày 26/10/2009. Nếu ly hôn, anh T có nguyện vọng giao cháu P cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con và xin tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về quan hệ tài sản chung và khoản nợ: Thống nhất với chị Lê Thị H, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký thực hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Các đương sự chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 55, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị H được ly hôn với anh Nguyễn Văn T; Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Thanh P, sinh ngày 26/10/2009 cho chị Lê Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh T do chị H chưa yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Đây là vụ án hôn nhân gia đình do chị Lê Thị H yêu cầu, nơi ĐKHKTT của bị đơn anh Nguyễn Văn T ở khối H, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn T. Tuy nhiên chị H và anh T có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải và đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Lê Thị H, anh Nguyễn Văn T theo quy định.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn T kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 08/7/2009 tại UBND phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn được hai năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng về tính cách và quan điểm sống. Vợ chồng đã được chính quyền địa P hòa giải nhưng không có kết quả. Theo kết quả xác minh tại UBND phường N thì vợ chồng chị H, anh T có phát sinh mâu thuẫn nhưng nguyên nhân cụ thể UBND phường không nắm được. Hiện tại, chị H và anh T đều thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn, thống nhất ly hôn, có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và đưa vụ án ra xét xử, yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn để hai bên sớm ổn định cuộc sống. Hiện nay, anh Nguyễn Văn T đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc số II, tỉnh Nghệ An. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị H, anh T thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cả hai đều thống nhất ly hôn. Xét thấy, việc thuận tình ly hôn của chị H, anh T là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội; căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn T.

- Về quan hệ con chung: Anh Nguyễn Văn T và chị Lê Thị H có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thanh P, sinh ngày 26/10/2009. Cháu hiện tại đang ở với mẹ. Chị H và anh T thống nhất giao cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con. Xét thấy yêu cầu của chị H, anh T là chính đáng và phù hợp với nguyện vọng của cháu là được với mẹ. Để cháu P phát triển đầy đủ thể chất, tinh thần, ổn định cuộc sống nên giao cháu Nguyễn Thị Thanh P cho chị Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu, anh T hiện đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xin tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn T.

- Về quan hệ tài sản chung và khoản nợ: Chị H và anh T thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí:

Chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51,55, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, 35, 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn T 2. Về con chung: Giao con chung cháu Nguyễn Thị Thanh P, sinh ngày 26/10/2009 cho chị Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn T.

Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị Lê Thị H cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh Nguyễn Văn T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Anh Nguyễn Văn T không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con chung các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Miễn xét.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy h tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí: Buộc chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Cửa Lò theo biên lai số 0000284 ngày 15/10/2020. Chị Lê Thị H đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:80/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cửa Lò - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về