Bản án /2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN /2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 273/2020/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2020, về ly hôn - tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lan P – Sinh năm 1995 Địa chỉ: xóm 5 (xóm 10 cũ), xã SN, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình: có mặt.

Bị đơn: nh Nguyễn Văn T - Sinh năm 1994 Địa chỉ: tổ 14, phường Đ T, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình: Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 28/7/2020, chị Nguyễn Thị Lan P – Sinh năm 1995; Địa chỉ: xóm 5 (xóm 10 cũ), xã S N, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình nộp đơn xin ly hôn với anh Nguyễn Văn T - Sinh năm 1994; Địa chỉ: tổ 14, phường Đ T, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình với nội dung: Ngày 28/12/2017, chị Nguyễn Thị Lan P và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn theo quy định tại Ủy ban nhân dân phường Đ T, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Quá trình chung sống, vợ chồng không hòa thuận. Mâu thuẫn xảy ra ngay sau khi cưới. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh T hay uống rượu say, đi đêm về muộn, chửi bới vợ con, cờ bạc. Hai vợ chồng đã ly thân từ ngày 05/10/2018 (từ ngày chị P mang thai 03 tháng) đến nay. Nay chị P xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: chị Nguyễn Thị Lan P và anh Nguyễn Văn T có một con chung là: Nguyễn Nhật Thanh C, sinh ngày 04/4/2019. Chị P có nguyện vọng nuôi con, chưa yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 17/8/2020, anh Nguyễn Văn T xác nhận thực trạng mối quan hệ hiện nay giữa vợ và chồng đúng như trình bày của chị Nguyễn Thị Lan P. Theo anh T, mâu thuẫn nảy sinh do hai vợ chồng không hợp nhau về tính cách, quan điểm, cả hai đều không tích cực thay đổi cho phù hợp mà đã sống ly thân lâu ngày, không còn quan tâm đến nhau nữa. Hiện tại tình cảm vợ chồng không còn, chị P có yêu cầu ly hôn anh T cũng đồng ý.

Về con chung: Theo anh T, hiện vợ chồng có một con chung là: Nguyễn Nhật Thanh C, sinh ngày 04/4/2019. Anh T có nguyện vọng nuôi con, chưa yêu cầu chị P cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh T yêu cầu không hòa giải, nêu lý do bận nhiều công việc không thể có mặt tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình để tham gia giải quyết và xét xử việc ly hôn, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tòa án đã triệu tập các đương sự để tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ. Tại phiên họp, bị đơn là anh Nguyễn Văn T vắng mặt, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan P không nộp thêm tài liệu, chứng cứ nào khác, có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải và giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ thực trạng hôn nhân giữa vợ chồng anh Dũng và chị Hiếu đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, xử cho chị P được ly hôn anh T.

Về con chung: giao con Nguyễn Nhật Thanh C, sinh ngày 04/4/2019 cho chị Nguyễn Thị Lan P nuôi dưỡng, chăm sóc, chưa đề cập cấp dưỡng.

Về tài sản chung và công nợ chung: Không đề cập giải quyết.

Về án phí : Cần căn cứ quy định Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326 ngày 16/11/2012 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, buộc chị Phương phải có nghĩa vụ nộp án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong Căn cứ vào các chứng cứ các tài liệu mà đương sự cung cấp; qua thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận và ý kiến của các đương sự, của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: anh Nguyễn Văn T có nơi đăng ký thường trú tại: tổ 14, phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; chị Nguyễn Thị Lan P có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Thủy. Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về hôn nhân gia đình; như vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Sau khi thụ lý và trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành lấy lời khai, thu thập chứng cứ đối với bị đơn, tống đạt hợp lệ các giấy tờ về thông báo thụ lý, thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đối với các đương sự; do các đương sự đều yêu cầu không tiến hành hòa giải. Phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 15/9/2020, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa. Phiên tòa mở lại lần thứ hai, bị đơn đã được Tòa án triệu tập phiên tòa lần thứ hai hợp lệ vẫn cố tình vắng mặt. Như vậy việc xét xử ly hôn vắng mặt bị đơn trong vụ án đảm bảo đúng quy định tại Khoản 1 Điều 207 và Điểm b khoản 2 Điều 227 (Vắng mặt bị đơn) của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Lan P và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau ngày 28/12/2017 có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Việc kết hôn do hai bên tự nguyện, thực trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Lan P và anh Nguyễn Văn T được xác định là hôn nhân hợp pháp. Khi về chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, hai vợ chồng đến nay đã sống ly thân được 02 năm không ai còn quan tâm thăm hỏi nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn được xác định do xuất phát từ bất đồng quan điểm và lối sống, hai vợ chồng không hòa hợp. Khi sống ly thân mỗi người một nơi, chị P và anh T không tích cực trong việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, vợ chồng không còn quan tâm, hỏi han nhau nữa. Xét thấy khả năng đoàn tụ vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không thể đạt được. Cần căn cứ các quy định tại Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Nguyễn Thị Lan P được ly hôn anh Nguyễn Văn T là hợp tình, hợp lý, phù hợp với thực tế và các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam.

[3]. Về con chung: chị Nguyễn Thị Lan P và anh Nguyễn Văn T có một con chung là: Nguyễn Nhật Thanh C, sinh ngày 04/4/2019. Xét thấy, cháu Thanh C mới chỉ được 17 tháng tuổi, căn cứ Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, cần giao con cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng mới đảm bảo điều kiện sống cho con còn nhỏ và đúng với quy định của pháp luật. Nguyện vọng của nguyên đơn là phù hợp với điều kiện thực tế, bởi quyền và nghĩa vụ của cha và mẹ đối với con cái là như nhau, nhưng con chung là Nguyễn Nhật Thanh C là trẻ dưới 36 tháng tuổi, cần ưu tiên người mẹ nuôi nấng chăm sóc, nên giao con Nguyễn Nhật Thanh Chi cho chị Nguyễn Thị Lan Phương là hợp lý, cần xem xét.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không có yêu cầu, không đề cập giải quyết.

[5]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không có tài sản chung, công nợ chung, không đề cập giải quyết.

[6]. Về án phí: chị Nguyễn Thị Lan P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Khoản 1 Điều 228; Điều 271 và Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Căn cứ Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan P.

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Lan P được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: chị Nguyễn Thị Lan P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Nguyễn Nhật Thanh C, sinh ngày 04/4/2019.

nh Nguyễn Văn T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: chị Nguyễn Thị Lan P phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Phương đã nộp theo biên lai số: 0006956 ngày 04/8/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án /2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về