Bản án 80/2020/DS-ST ngày 30/03/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 80/2020/DS-ST NGÀY 30/03/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 30 tháng 3 năm 2020, tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 474/2019/TLST-DS ngày 09 tháng 8 năm 2019 về: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2020/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2020/QĐST-DS ngày 10 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S; Trụ sở: Phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Đức T, sinh năm 1984 - là nhân viên Ngân hàng TMCP S (Giấy ủy quyền số 879/2019/UQ-TTT ngày 13 tháng 11 năm 2019).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1983; Địa chỉ: Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ông Trần Đức T vắng mặt có đơn xin vắng mặt, ông Nguyễn Thanh Q được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 15 tháng 11 năm 2017 của Ngân hàng TMCP S và quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Đức T là người đại diện của nguyên đơn trình bày: Ngày 29/4/2011 ông Nguyễn Thanh Q có ký với Ngân hàng TMCP S (gọi tắt là Ngân hàng) hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng - Các tài liệu này được gọi chung là hợp đồng). Căn cứ thu nhập của ông Q, Ngân hàng đã đồng ý cấp Thẻ tín dụng Visa Credit Classic số thẻ 472074-8606 (gọi tắt là thẻ Visa) với hạn mức sử dụng là 30.000.000 đồng, mục đích sử dụng là tiêu dùng cá nhân, lãi suất áp dụng là 2,15%. Sau một thời gian sử dụng, đến ngày 01/6/2012 ông Q đăng ký thêm thẻ Family Local Credit số thẻ 970403-3944 (gọi tắt là thẻ Family) với hạn mức sử dụng chung là 30.000.000 đồng, lãi suất áp dụng là 2,5%. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, ông Q đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 99.295.509 đồng (trong đó thẻ Visa là 89.195.509 đồng, thẻ Family là 10.100.000 đồng).

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt đến nay, ông Q đã thanh toán cho ngân hàng số tiền là 97.388.359 đồng thì ngưng, cụ thể: Thẻ Visa thanh toán được 90.678.359 đồng, thẻ Family thanh toán được 6.710.000 đồng (thứ tự thanh toán theo Điều 20 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng). Qua nhiều lần làm việc nhắc nhở nhưng ông Q vẫn không có thiện chí trả nợ. Do ông Q vi phạm nghĩa vụ thanh toán (theo Điều 2 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng) nên ngày 16/5/2014, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (theo Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng).

Tính đến ngày xét xử sơ thẩm 30/3/2020, ông Q còn nợ các khoản sau: Nợ gốc: Thẻ Visa là 21.636.649 đồng; thẻ Family là 7.649.721 đồng.

Lãi quá hạn: Thẻ Visa là 49.913.814 đồng (lãi suất áp dụng 150% của mức lãi suất 2,15% là 3,225%); thẻ Family là 20.453.118 đồng (lãi suất áp dụng 150% của mức lãi suất 2,5% là 3,75%).

Tổng số nợ gốc và lãi quá hạn là: 99.653.302 đồng.

Về tiền lãi quá hạn được thực hiện theo thỏa thuận tại Điều 22 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng. Lãi suất hàng tháng do Ngân hàng quy định theo từng thời kỳ cụ thể, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất được công bố đối với toàn bộ dư nợ.

Mặc dù Ngân hàng đã yêu cầu ông Q thanh toán ngay khoản nợ quá hạn, tuy nhiên ông Q vẫn chưa thanh toán khoản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản tại Hợp đồng đã ký.

Nay, Ngân hàng TMCP S vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc cá nhân ông Nguyễn Thanh Q phải trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc và lãi quá hạn của hai thẻ tín dụng là thẻ Visa và thẻ Family tính đến ngày xét xử sở thẩm 30/3/2020 là: 99.653.302 đồng.

Yêu cầu trả ngay một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, ông Q còn phải thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 31/3/2020 đến khi trả hết số nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Thanh Q đã được Tòa án tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không có mặt tại Tòa án để làm bản tự khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông Q.

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn là ông Trần Đức T vắng mặt có đơn xin vắng mặt, đã có bản tự khai phù hợp với đơn khởi kiện và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn là ông Nguyễn Thanh Q được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vắng mặt không có lý do. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán chấp hành đ ng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xác minh, thu thập chứng cứ; cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng; quyết định đưa vụ án ra xét xử và chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát đ ng thời hạn. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa thực hiện đ ng quy định về nội quy phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn thực hiện đ ng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đ ng quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Nhận thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Căn cứ hồ sơ vụ án thể hiện ông Nguyễn Thanh Q có giao kết hợp đồng tín dụng (theo hai “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” ký ngày 21/4/2011 và ngày 30/5/2012) với Ngân hàng TMCP S và được Ngân hàng phê duyệt vào các ngày 29/4/2011 và ngày 01/6/2012. Do phía ông Q vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nên xảy ra tranh chấp. Vì vậy, có cơ sở xác định đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Theo kết quả xác minh của công an xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi thì ông Nguyễn Thanh Q có đăng ký hộ khẩu thường tr tại Thôn 1, xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi nhưng hiện nay không có mặt tại địa phương xã Đức Nhuận. Hiện ông Q đang làm ăn, sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ cụ thể địa phương không rõ. Theo kết quả xác minh của công an Phường 10, quận Gò Vấp thì ông Nguyễn Thanh Q, trước đây có tạm tr tại địa chỉ số 437 và 449 Quang Trung, Phường 10, quận Gò Vấp Hiện nay ông Q không còn cư ngụ tại địa chỉ trên và chuyển đi vào năm 2012, không rõ nơi ở mới.

Như vậy, tại thời điểm ký kết “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” ngày 21/4/2011 và ngày 30/5/2012 với Ngân hàng TMCP S và được Ngân hàng phê duyệt vào các ngày 29/4/2011 và ngày 01/6/2012, bị đơn cung cấp nơi cư tr tại hai địa chỉ 437 và 449 Quang Trung, Phường 10, quận Gò Vấp. Nguyên đơn không biết địa chỉ nào khác của bị đơn, nên căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 5 và khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, có cơ sở xác định đơn khởi kiện của nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đ ng địa chỉ nơi cư tr cuối cùng của bị đơn mà người khởi kiện biết được gần nhất, tính đến thời điểm khởi kiện và được cơ quan có thẩm quyền cấp, xác nhận. Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05 tháng 5 năm 2017 của Tòa án nhân dân Tối cao thì việc ông Nguyễn Thanh Q thay đổi nơi cư tr gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng đã ký mà không thông báo cho Ngân hàng TMCP S biết về nơi cư tr mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40 Bộ luật Dân sự 2015 được coi là cố tình giấu địa chỉ, nên xác định bị đơn có nơi cư tr cuối cùng tại địa chỉ 437 và 449 Quang Trung, Phường 10, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, và điểm a khoản 1 Điều 40 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn là Ngân hàng TMCP S do ông Trần Đức T là người đại diện theo ủy quyền vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, ông Nguyễn Thanh Q đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đ ng quy định của pháp luật nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có lời khai và các tài liệu, chứng cứ giao nộp cho Tòa án để thể hiện sự phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, ông Nguyễn Thanh Q đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình nên phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự và lấy yêu cầu khởi kiện, lời khai của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn phải trả số tiền nợ gốc của hai thẻ tín dụng tính đến ngày xét xử sở thẩm 30/3/2020 là 99.653.302 đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định, ngày 21/4/2011 ông Nguyễn Thanh Q có ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng loại thẻ Visa với Ngân hàng TMCP S (theo “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” do ông Q ký ngày 21/4/2011), được Ngân hàng phê duyệt ngày 29/4/2011 với hạn mức sử dụng là 30.000.000 đồng để tiêu dùng cá nhân). Sau đó, ngày 30/5/2012 ông Q tiếp tục ký với Ngân hàng TMCP S hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng loại thẻ Family (theo “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” do ông Q ký ngày 30/5/2012, được Ngân hàng phê duyệt ngày 01/6/2012 với hạn mức sử dụng chung là 30.000.000 đồng. Theo Điều 2 của bản “Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng TMCP S” và bản tóm tắt sao kê do nguyên đơn cung cấp, thể hiện bị đơn đã nhận được thẻ và đã phát sinh giao dịch lần đầu đối với thẻ Visa vào ngày 15/5/2011 và với thẻ Family vào ngày 20/6/2012. Trong quá trình sử dụng thẻ, ông Q đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 99.295.509 đồng (trong đó, thẻ Visa là 89.195.509 đồng, thẻ Family là 10.100.000 đồng) và đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền là 97.388.359 đồng thì ngưng (Thẻ Visa là 90.678.359 đồng, thẻ Family là 6.710.000 đồng). Hiện ông Q còn nợ số tiền gốc là 29.286.370 đồng (trong đó, thẻ Visa là 21.636.649 đồng; thẻ Family là 7.649.721 đồng). Mặc dù được Ngân hàng nhiều lần nhắc nhở nhưng bị đơn vẫn không thanh toán như đã thỏa thuận và đã bỏ đi khỏi nơi cư tr không thông báo cho Ngân hàng về địa chỉ cư tr mới. Do bị đơn không thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng là đã vi phạm thỏa thuận hợp đồng được quy định tại Điều 23 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, nên căn cứ vào Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Ngân hàng có quyền chấm dứt việc sử dụng thẻ và buộc bị đơn phải trả nợ là có cơ sở chấp nhận.

[5] Về tiền lãi: Theo thỏa thuận của hợp đồng thì ông Q phải thanh toán cho Ngân hàng nợ gốc và lãi theo cách tính lãi quy định tại Điều 22 của Bản điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng nhưng ông Q không thực hiện nên Ngân hàng thông báo thu hồi nợ và chuyển toàn bộ số tiền nợ còn lại thành nợ quá hạn và tính lãi theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Tiền lãi phát sinh tính đến ngày xét xử sơ thẩm 30/3/2020 là 70.366.932 đồng (trong đó, thẻ Visa là 49.913.814 đồng; thẻ Family là 20.453.118 đồng) theo bảng Tóm tắt sao kê của nguyên đơn cung cấp là có cơ sở và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Xét việc bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn nên việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả toàn bộ số nợ trên một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật là có cơ sở.

[7] Về yêu cầu bị đơn tiếp tục trả tiền lãi phát sinh từ ngày 31/3/2020 là ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết số nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng. Xét thấy yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp về việc giải quyết vụ án là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Từ những nhận định, đánh giá như trên, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn ông Nguyễn Thanh Q phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền còn nợ gồm gốc và lãi quá hạn của thẻ tín dụng Visa Credit Classic số thẻ 472074-8606 theo “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” được Ngân hàng TMCP S phê duyệt ngày 29/4/2011 và thẻ tín dụng Family Local Credit số thẻ 970403-3944 theo “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” được Ngân hàng TMCP S phê duyệt ngày 01/6/2012.

[10] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho nguyên số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

[11] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 40; khoản 2 và khoản 4 Điều 91; khoản 2 Điều 92; điểm e khoản 1 Điều 192; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 389, Điều 401, Điều 405, Điều 471 và Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 3 Điều 40 và khoản 1 Điều 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S:

1.1. Buộc ông Nguyễn Thanh Q có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền nợ tính đến ngày 30/3/2020 như sau:

- Tiền nợ phát sinh từ thẻ tín dụng Visa Credit Classic số thẻ 472074-8606 theo “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” được Ngân hàng TMCP S phê duyệt ngày 29/4/2011 là 71.550.463 đồng (Bảy mươi mốt triệu năm trăm năm mươi ngàn bốn trăm sáu mươi ba đồng). Trong đó: nợ gốc là 21.636.649 đồng (Hai mươi mốt triệu sáu trăm ba mươi sáu ngàn sáu trăm bốn mươi chín đồng), lãi quá hạn là 49.913.814 đồng (Bốn mươi chín triệu chín trăm mười ba ngàn tám trăm mười bốn đồng);

- Tiền nợ phát sinh từ thẻ tín dụng Family Local Credit số thẻ 970403-3944 theo “Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm Hợp đồng” được Ngân hàng TMCP S phê duyệt ngày 01/6/2012 là 28.102.839 đồng (Hai mươi tám triệu một trăm lẻ hai ngàn tám trăm ba mươi chín đồng). Trong đó: nợ gốc là 7.649.721 đồng đồng (Bảy triệu sáu trăm bốn mươi chín ngàn bảy trăm hai mươi mốt đồng), lãi quá hạn là 20.453.118 đồng (Hai mươi triệu bốn trăm năm mươi ba ngàn một trăm mười tám đồng);

Tổng cộng là: 99.653.302 đồng (Chín mươi chín triệu sáu trăm năm mươi ba ngàn ba trăm lẻ hai đồng). Trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, ông Nguyễn Thanh Q còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận.

Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2. Về án phí:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm là 4.982.665 đồng (Bốn triệu chín trăm tám mươi hai ngàn sáu trăm sáu mươi lăm đồng) do ông Nguyễn Thanh Q chịu;

2.2. Trả lại cho Ngân hàng TMCP S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.755.000 đồng (Một triệu bảy trăm năm mươi lăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 000918 ngày 06 tháng 12 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

289
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2020/DS-ST ngày 30/03/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:80/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về