Bản án 80/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 80/2019/HS-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 80/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Dương Thị Bích T, sinh năm 1985 tại Bình Phước; nơi cư trú ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; chổ ở hiện nay khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nữ, tôn giáo: Phật giáo, Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Dương Đức H, sinh năm 1955 và bà Võ Thị L, sinh năm 1956; bị cáo có chồng là anh Huỳnh  và anh Ngô Minh Đ (đã ly hôn) và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tam giam từ ngày 02/4/2019 cho đến nay “có mặt”.

2. Nguyễn Thị Tường V, sinh năm 1993 tại Quảng Ngãi; nơi cư trú tổ 01, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; chổ ở hiện nay ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nữ, tôn giáo: Không, Quốc tịch: Việt Nam. Họ tên cha không rõ, mẹ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1964; bị cáo có chồng là anh Nguyễn Xuân Á và có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tam giam từ ngày 02/4/2019 cho đến nay “có mặt”.

Ni chứng kiến:

Anh Phan Văn Đ, sinh năm 1995; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Đ; chổ ở hiện nay khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”;

Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1966; nơi cư trú khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân là người thường xuyên sử dụng ma túy nên khoảng 13 giờ ngày 29/03/2019, Dương Thị Bích T một mình đón xe khách đi thành phố Hồ Chí Minh với mục đích mua ma túy về để sử dụng. Khi đến khu vực ngã tư Bình Phước, thuộc thành phố Hồ Chí Minh thì T gọi điện cho một người đàn ông tên N (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua ma túy thì N hẹn gặp T tại công viên G, thuộc quận G, thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này chưa thấy N đến nơi hẹn nên T tiếp tục gọi điện thoại lại cho N thì N kêu T chờ ở đó, khoảng 10 phút sau thì N một mình điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến gặp T. Tại đây, N đưa cho T 01 bọc nylon bên trong có 03 bọc nylon nhỏ gồm: 01 bọc nylon chứa 11 viên ma túy dạng thuốc lắc, trong đó có 1 viên bị bể làm 2 nửa; 01 bọc nylon chứa ma túy đá và 01 bọc nylon chứa ma túy khay, N nói với T tổng số ma túy trên có giá 7.500.000 đồng thì T đồng ý mua toàn bộ số ma túy trên và cất giấu vào trong túi xách cá nhân rồi đón xe khách về thành phố Đ, tỉnh Bình Phước. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T thuê phòng số 08 tại khách sạn H, thuộc khu phố T, phường T, thành phố Đ để nghỉ ngơi và cất giấu ma túy mà T vừa mua được. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, T lấy túi nylon chứa ma túy đá trích ra một ít ma túy bỏ vào trong 01 gói nylon khác rồi cất số ma túy còn lại vào trong túi xách của mình, từ gói ma túy đá vừa trích ra T lấy 1 ít cho vào bộ dụng cụ và sử dụng một mình tại phòng, số ma túy còn lại trong gói nylon trên T hàn kín các mép sau đó cất giấu vào trong vỏ ốp lưng điện thoại di động của T. Sau khi sử dụng ma túy xong thì T lấy túi nylon chứa ma túy dạng thuốc lắc và bọc nylon chứa ma túy khay bỏ vào trong 01 bọc nylon miệng kéo dính rồi dùng 01 khẩu trang y tế màu xanh quấn tròn bên ngoài số ma túy trên lại, sau đó cất giấu vào trong khe kệ của tủ gỗ để ở trong phòng số 8, khách sạn H. Đến khoảng 12 giờ ngày 30/3/2019, T gọi điện thoại rủ Nguyễn Thị Tường V đến phòng số 8, khách sạn H chơi thì V đồng ý. Tại đây, T rủ V sử dụng ma túy đá thì V đồng ý, sau đó T lấy gói nylon chứa ma túy đá ở trong vỏ ốp lưng điện thoại của T trích ra một ít ma túy cho vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy, đồng thời trích tiếp ra một ít ma túy đá cho vào 01 túi nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (1,5 x 2,0) cm cho V sử dụng thì V đồng ý cất giấu số ma túy vào trong ví cá nhân của mình, còn gói nylon chứa số ma túy còn lại thì T hàn kín mép gói nylon rồi cất giấu vào trong vỏ ốp lưng điện thoại của T. Sau khi sử dụng ma túy xong thì V ở lại phòng số 8, khách sạn H cùng với T. Đến khoảng 18 giờ ngày 31/3/2019, T tiếp tục rủ V sử dụng ma túy đá thì V đồng ý, nên T lấy gói ma túy đá ở trong vỏ ốp lưng điện thoại của T trích ra một ít ma túy cho vào trong bộ dụng cụ sử dụng, quá trình trích ma túy cho vào trong bộ dụng cụ thì T làm rơi một ít ma túy xuống nền nhà của phòng nghỉ, thấy vậy V xin T số ma túy đá mà T vừa làm rơi xuống nền nhà của phòng nghỉ thì T đồng ý, nên V nhặt lấy số ma túy đá nói trên cho vào 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng hàn kín hai đầu và cất giấu vào trong ví da màu nâu của V. Còn gói nylon chứa số ma túy đá còn lại của T thì T hàn kín mép gói nylon rồi cất giấu vào trong vỏ ốp lưng điện thoại của mình. Đến khoảng 20 giờ ngày 01/04/2019 trong lúc ăn tối tại quán Hải Sản P, thuộc phường T, thành phố Đ, T lấy bọc nylon chứa 01 viên ma túy thuốc lắc đưa cho V và kêu cho V số ma túy này để V sử dụng thì V đồng ý cất giấu viên ma túy nói trên vào trong ví da cá nhân của V. Đến khoảng 07 giờ ngày 02/4/2019, T tiếp tục rủ V sử dụng ma túy đá thì V đồng ý nên T lấy gói ma túy đá ở trong vỏ ốp lưng điện thoại của T trích ra một ít ma túy cho vào bộ dụng cụ sử dụng, số ma túy còn lại T hàn kín mép gói nylon rồi cất giấu vào trong vỏ ốp lưng điện thoại như cũ. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T lấy túi nylon chứa ma túy đá ở trong túi xách của T dùng 01 khẩu trang y tế màu xanh quấn tròn bên ngoài bọc nylon chứa ma túy lại rồi cất giấu trong cổ áo phía sau gáy áo của T đang mặc mục đích mang về cất giấu tại nhà của mình, thuộc ấp T, xã T, huyện Đ, đồng thời cầm theo chiếc điện thoại di động đang cất giấu gói nylon chứa ma túy đá trong vỏ ốp lưng, lúc này T nói với V ở lại trong phòng số 8, khách sạn H để T đi về nhà có công việc khi nào xong T quay lại thì V đồng ý. Tuy nhiên khi T vừa đi ra đến cửa phòng thì lực lượng Công an thành phố Đ kết hợp Phòng PC 04 Công anh tỉnh Bình Phước và Công an phường T đến phòng số 8, khách sạn H kiểm tra hành chính và phát hiện và lập biên bản bắt quả tang, tiến hành niêm phong tang vật như sau: Trong vỏ ốp lưng điện thoại di động của Dương Thị Bích T đang cầm trên tay có 01 gói nylon hàn kín các mép, kích thước khoảng (2,0 x 2,0)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (M1-2); trên cổ áo phía sau gáy của T đang mặc có 01 khẩu trang y tế màu xanh quấn tròn bên trong có 01 bọc nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (7,0 x 12)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (M1-1). Phát hiện trong ví da màu nâu của V để trong túi quần đang mặc có 01 bọc nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (1,5 x 2,0)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu, kích thước dài khoảng 4,0cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (M2-2); 01 bọc nylon miệng dán kín, kích thước khoảng (6,5 x 8,5)cm bên trong chứa 01 viên nén màu xanh (M2-1).

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại phòng số 08, khách sạn H phát hiện và thu giữ trong khe kệ của chiếc tủ gỗ để ở trong phòng có 01 khẩu trang y tế màu xanh quấn tròn; bên trong có: 01 bọc nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (6,5 x 8,0)cm, bên trong có 01 bọc nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (3,0 x 3,5)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng màu trắng (M3-2); 01 bọc nylon miệng kéo dính, kích thước khoảng (3,0 x 5,0)cm bên trong chứa 09 viên nén màu xanh và 02 nửa viên nén màu xanh (M3-1).

Tại bản kết luận giám định số: 88/2019/GĐ-MT ngày 09/04/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận như sau:

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M1-1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 27,0735 (hai bảy phẩy không bảy ba năm) gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M1-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2490 (không phẩy hai bốn chín không) gam, loại Methamphetamine.

- Viên nén màu xanh hình vuông (kí hiệu M2-1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,3487 (không phẩy ba bốn tám bảy) gam, loại Ketamine.

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M2-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,4656 (không phẩy bốn sáu năm sáu) gam, loại Methamphetamine.

- 09 (chín) viên nén màu xanh hình vuông và 02 nửa viên nén màu xanh (kí hiệu M3-1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 3,6615 (ba phẩy sáu sáu một năm) gam, loại Ketamine.

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M3-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 1,4943 (một phẩy bốn chín bốn ba) gam, loại Ketamine.

(Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục IIC, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ. Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ).

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã thu giữ:

+ Thu giữ của bị cáo Dương Thị Bích T: 01 (một) gói nylon hàn kín các mép, kích thước (2,0 x 2,0)cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) bọc nylon miệng kéo dính, kích thước (7,0 x 12)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) bọc nylon hàn kín các mép, kích thước (3,0 x 3,5)cm bên trong chứa chất màu trắng; 01 (một) bọc nylon miệng kéo dính, kích thước (3,0 x 5,0)cm bên trong chứa 09 viên nén màu xanh và 02 nửa viên nén màu xanh; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh - đen, đã qua sử dụng; 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Dương Thị Bích T; số tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng) và 02 (hai) khẩu trang y tế màu xanh.

+ Thu giữ của Nguyễn Thị Tường V:

- 01 (một) bọc nylon miệng dán kín, kích thước (6,5 x 8,6)cm bên trong chứa 01(một) viên nén màu xanh; 01 (một) bọc nylon miệng kéo dính, kích thước (1,5 x 2,0)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 (một) đoạn ống hút màu trắng được hàn kín hai đầu, dài 4,0cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng-xám, đã qua sử dụng (bị bể màn hình); 01 (một) ví da màu nâu, đã qua sử dụng.

Tại Bản cáo trạng số 82/CT-VKS ngày 27/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ đã truy tố bị cáo Dương Thị Bích T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Thị Tường V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Dương Thị Bích T mức án từ 03 đến 04 năm tù.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tường V mức án từ 02 đến 03 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo Dương Thị Bích T 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen; 01 chứng minh nhân dân mang tên Dương Thị Bích T và số tiền 350.000 đồng; trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Tường V 01 chiếc điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng-xám, đã qua sử dụng và 01 ví da màu nâu.

Bị cáo T và V tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 82/CT-VKS ngày 27/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Bình Phước.

Xét lời khai nhận của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến; phù hợp với kết luận điều tra, với kết luận giám định, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng vụ án cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do bản thân là người nghiện ma túy và muốn có ma túy để sử dụng nhiều lần nên khoảng 13 giờ ngày 29/3/2019 Dương Thị Bích T đã mua 7.500.000 đồng ma túy của một đối tượng tên Nhóc (chưa rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực công viên G, quận G, thành phố Hồ Chí Minh về phòng số 8 khách sạn H, tại khu phố T, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước cất giấu sử dụng. Sau khi nhiều lần cùng Nguyễn Thị Tường V sử dụng thì đến khoảng 13 giờ ngày 02/4/2019 T và V bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang thu giữ trên tay; trong khẩu trang y tế màu xanh trên cổ áo T và trong kệ tủ phòng số 8 số ma túy T cất giấu. Thu giữ trong ví da màu nâu của Nguyễn Thị Tường V số ma túy của V cất giấu.

Tại kết luận giám định số: 88/2019/GĐ-MT ngày 09/04/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận như sau:

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M1-1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 27,0735 (hai bảy phẩy không bảy ba năm) gam, loại Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M1-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2490 (không phẩy hai bốn chín không) gam, loại Methamphetamine.

- Viên nén màu xanh hình vuông (kí hiệu M2-1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 0,3487 (không phẩy ba bốn tám bảy) gam, loại Ketamine.

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M2-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,4656 (không phẩy bốn sáu năm sáu) gam, loại Methamphetamine.

- 09 (chín) viên nén màu xanh hình vuông và 02 nửa viên nén màu xanh (kí hiệu M3-1) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là: 3,6615 (ba phẩy sáu sáu một năm) gam, loại Ketamine.

- Tinh thể màu trắng (kí hiệu M3-2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 1,4943 (một phẩy bốn chín bốn ba) gam, loại Ketamine.

[3] Căn cứ vào hành vi của các bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ khối lượng 27,3225 gam ma túy loại Methamphetamine; 5,1558 gam ma túy loại Ketamine mà bị cáo Dương Thị Bích T cất giữ và 0,4656gam ma túy loại Methamphetamine; 0,3487gam ma túy loại Ketamine mà bị cáo Nguyễn Thị Tường V cất giữ mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đ truy tố bị cáo Dương Thị Bích T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Nguyễn Thị Tường V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bản thân các bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc cất giấu ma túy để sử dụng là hành vi vi phạm pháp luật, khi bị phát hiện sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Song, để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mà các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi mà các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội, góp phần làm gia tăng tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng và sự phát triển lành mạnh của con người. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo một mức án nghiêm để răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[5] Do đây là vụ án đồng phạm nên cần phân tích vai trò của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt:

Đối với bị cáo Dương Thị Bích T: Bị cáo là người trực tiếp liên hệ mua ma túy về cất giấu sử dụng, ngoài việc sử dụng ma túy bị cáo còn đưa ma túy cho V sử dụng và cho V ma túy để cất giấu sử dụng, do đó cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Đối với bị cáo Nguyễn Thị Tường V: Khi được bị cáo T đưa ma túy cho sử dụng thì bị cáo đã đồng ý và cùng với T sử dụng ma túy, ngoài việc sử dụng ma túy bị cáo còn cất giấu số ma tuý T cho để sử dụng riêng, do đó cũng cần có mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về các tình tiết giảm nhẹ hình phạt: Xét trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bản thân các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo T có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nuôi 02 con nhỏ. Do vậy bị cáo T được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo V được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có hoàn cảnh gia đình khó khăn đang nuôi 02 con còn nhỏ nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, cũng đủ để răn đe, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

Đối với người đàn ông tên N (chưa rõ nhân thân, lai lịch) bán ma túy cho bị cáo T vào ngày 29/3/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã có Công văn đề nghị Công an quận G, thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xác minh, điều tra xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Đ là người quản lý khách sạn H. Tuy nhiên khi cho các bị cáo thuê phòng, anh Đ không biết mục đích các bị cáo thuê để cất giấu sử dụng ma túy nên không đặt ra để xử lý.

[8] Về vật chứng của vụ án:

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Cần tịch thu tiêu hủy số vật chứng trong vụ án hiện không còn khả năng sử dụng gồm: 03 bì thư mẫu vật hoàn lại sau giám định vụ số 88 M1, 88 M2, 88 M3 ngày 09/4/2019 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Phước, được niêm phong, đóng dấu giáp lai; 02 (hai) khẩu trang y tế màu xanh và 01(một) ví da màu nâu, đã qua sử dụng.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh-đen, đã qua sử dụng và 01chiếc điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng-xám, đã qua sử dụng (bị bể màn hình) xét thấy đây là phương tiện các bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên xét thấy 02 chiếc điện thoại trên hiện không còn giá trị sử dụng và đã cũ nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01(một) chứng minh nhân dân mang tên Dương Thị Bích T và số tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng) do đây là tài sản riêng của bị cáo T, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo T nên cần trả lại cho bị cáo.

[9] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ là có căn cứ được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Dương Thị Bích T và bị cáo Nguyễn Thị Tường V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Dương Thị Bích T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2019.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Điều 58 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Tường V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2019.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 03 bì thư mẫu vật hoàn lại sau giám định vụ số 88 M1, 88 M2, 88 M3 ngày 09/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước, được niêm phong, đóng dấu giáp lai; 02 (hai) khẩu trang y tế, đã cũ; 01(một) ví da màu nâu, đã qua sử dụng; 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh-đen, đã cũ, không lên nguồn, không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong và 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng-xám, đã qua sử dụng (bị bể màn hình) không lên nguồn, không kiểm tra được tình trạng máy móc bên trong.

Trả lại cho bị cáo Dương Thị Bích T 01 chứng minh nhân dân mang tên Dương Thị Bích T và số tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0001697, quyền số 0034, ký hiệu D47/2017 ngày 04/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ)

4. Về án phí sơ thẩm:

Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo T và bị cáo V mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HS-ST ngày 15/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về