Bản án 80/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 80/2019/HS-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 56/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Quý L, sinh ngày 06/9/198A tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số nhà 3, lô B239, khu T3, tổ 9, phường T.T, quận H.A, thành phốHải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị D; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 22/01/2019; tạm giam ngày 25/01/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 21/01/2019, do bản thân nghiện ma túy nên Trần Quý L đi đến khu vực ngã ba Hàng Kênh, quận Lê Chân, Hải Phòng gặp một nam giới không quen biết (không rõ căn cước, lai lịch), L nhìn giống người nghiện nên nhờ người này mua hộ 100.000 đồng ma túy. Người này nhận tiền, đi đâu đó khoảng 03 phút thì quay lại và đưa cho L 01 gói giấy bên trong có chứa Heroine còn người nam giới bỏ đi đâu không rõ. L lấy 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng bọc gói ma túy lại, cầm ở tay phải và đi bộ về phía đường Lạch Tray, Hải Phòng. Lúc này tổ công tác của Công an phường Trần Nguyên Hãn làm nhiệm vụ tuần tra trên địa bàn quận Lê Chân đã phát hiện, theo dõi L đến khu vực đầu ngõ 72 Lạch Tray, Hải Phòng và tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L dùng tay phải ném tờ tiền bên trong có chứa gói ma túy này về phía sau cách vị trí đang đứng khoảng 02 mét. Tổ công tác đã thu giữ tờ tiền 1.000đ bên trong có chứa gói ma túy và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia của L, sau đó dẫn giải L cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Trần Nguyên Hãn lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Quý L khai mua số ma túy trên nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Quá trình kiểm tra, do hoảng sợ nên L đã ném tờ tiền bên trong có chứa gói ma túy về phía sau cách vị trí đang đứng khoảng 02 mét. Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia là của L sử dụng để liêc lạc hàng ngày.

Tại Bản kết luận giám định số 45/KLGĐ(Đ6) ngày 25/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Chất bột màu trắng trong gói giấy thu giữ của Trần Quý L là ma túy, có khối lượng 0,1376 gam, là loại Heroine”.

Tại Bản cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 24/4/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Trần Quý L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Quý L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Quý L mức án từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và lượng ma túy còn lại sau giám định (số 45/2019/PC09). Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 1000đồng. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo, nhưng cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành khoản tiền án phí đối với bị cáo.

n cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng thu giữ; Bản kết luận giám định số 45/KLGĐ(Đ6) ngày 25/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; lời khai đó khẳng định: Ngày 21/01/2019, Trần Quý L đã có hành vi cất giữ trái phép 0,1376 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân và bị bắt quả tang tại khu vực đầu ngõ 72 Lạch Tray, Hải Phòng.

[3] Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Trần Quý L theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý chất gây nghiện và là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án nên phải xử lý nghiêm.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Quý L không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Đối với lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (đã được niêm phong trong bì thư niêm phong số 45/2019/PC09 ) xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

[8] Đối với tờ tiền 1.000đ (một ngàn đồng ) bị cáo dùng để gói lượng ma túy thu giữ của bị cáo, xét là công cụ, phương tiện phạm tội, cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[9] Đối với 01 điện thoại Nokia màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo, xét đây là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên không có cơ sở để tịch thu, nhưng cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành khoản tiền án phí đối với bị cáo.

[10] Đối với người nam giới mua hộ ma túy cho L, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không xác định được căn cước lai lịch nên không có cơ sở để điều tra.

[11] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ điểm c khoản 1Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Quý L 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 22 tháng 01 năm 2019.

n cứ điểm a, c khoản 1Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (đã được niêm phòng trong bì thư niêm phong số 45/2019/PC09) - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.000đ (một ngàn đồng) thu giữ của bị cáo.

- Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành khoản tiền án phí đối với bị cáo.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/4/2019 giữa Cơ quan Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Quý L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

- Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về