Bản án 80/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 80/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2019/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Lý Văn N, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 01 tháng 3 năm 1980 tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Không đi học (bị cáo nghe, hiểu và nói được tiếng Việt); dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn C (đã chết) và bà Phương Thị C; có vợ là Lâm Thị H sinh năm 1980 và có 02 con; tiền án: Có 01 tiền án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại Bản án số 51/2016/HSST ngày 16/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù, ngày 28/12/2018 chấp hành xong hình phạt tù, đến nay chưa được xóa án tích; tiền sự: Không có; nhân thân: Đã bị xử lý trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 07/8/2019 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Văn L - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Lý Quốc N, sinh năm 1999. Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Phùng Văn T, sinh năm 1983. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lý Văn N, sinh ngày 01/3/1980; đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghiện chất ma túy.

Khong 05 giờ ngày 07/8/2019, Lý Văn N một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12V1- 099.** đi từ nhà đến khu vực cửa khẩu T, thuộc xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn mục đích tìm mua ma túy đem về sử dụng. Đến khu vực cửa khẩu T, Lý Văn N điều khiển xe đi vào bãi xe ô tô ở bên trái cửa khẩu (không biết tên bãi xe), thấy một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ) đang đứng gần các ô tô tải chở hàng; Lý Văn N hỏi mua ma túy, người đàn ông đó đồng ý. Lý Văn N bảo bán cho 2.000.000 (hai triệu) đồng; người đàn ông nhận tiền và lấy ở túi quần bên phải ra 20 (hai mươi) gói ma túy heroine, được gói bằng giấy kẻ dòng màu trắng, đựng trong lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu vàng đưa cho Lý Văn N. Lý Văn N nhận lấy lọ nhựa đựng 20 (hai mươi) gói ma túy và cất giấu vào túi quần đằng trước bên phải đang mặc, sau đó điều khiển xe mô tô trở về nhà. Khi đến gần chợ H thuộc xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Lý Văn N lấy 01 (một) gói ma túy ra sử dụng; sử dụng xong, đi vào chợ H mua đồ dùng sau đó đi về nhà. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn Đ, xã N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn kiểm tra phát hiện trong túi quần đằng trước bên phải Lý Văn N đang mặc có 01 (một) lọ nhựa bên trong có 19 (mười chín) gói ma túy heroine. Tổ công tác đã đưa Lý Văn N cùng tang vật về trụ sở Ủy ban nhân dân xã N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn để lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tổ công tác đã thu giữ của Lý Văn N gồm:

+ 01 (một) lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu vàng bên trong chứa 19 (mười chín) gói giấy kẻ dòng màu trắng, trong mỗi gói giấy đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Lý Văn N”;

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu vàng đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel và 01 (một) sim Vinaphone;

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu đen đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12V1-099.**.

+ 700.000 (bẩy trăm nghìn) đồng, tiền Việt Nam.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Lãng tiến hành khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Lý Văn N. Thu giữ trong phòng ngủ của Lý Văn N: 01 (một) gói giấy kẻ dòng màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy, được niêm phong trong một phong bì thư ký hiệu bằng chữ viết tay “Khám xét Lý Văn N”; 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Lý Văn N.

Ngày 06/9/2019, anh Lý Quốc N giao nộp cho cơ quan điều tra 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy mang tên Lý Quốc N; biển số đăng ký 12V1-099.**.

Tại Kết luận giám định số 307/KL-PC09 ngày 10/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

1. Chất bột màu trắng có trong 19 (mười chín) gói giấy kẻ dòng màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Lý Văn N gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,614 gam (đã trừ bì).

2. Chất bột màu trắng có trong 01 (một) gói giấy kẻ dòng màu trắng thu giữ khi khám xét khẩn cấp nhà ở của Lý Văn N gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,032 gam (đã trừ bì).” Tại bản Cáo trạng số 74/CT-VKS ngày 15/10/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lý Văn N về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lý Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lý Văn N từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong hai phong bì niêm phong và toàn bộ vỏ bao gói là vật nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Lý Văn N 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Lý Văn N; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel và 01 (một) sim Vinaphone; 700.000 (bẩy trăm nghìn) đồng; là giấy tờ, tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Trả lại cho anh Lý Quốc N 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1-099.** và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy mang tên Lý Quốc N, quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Lý Quốc N (con trai bị cáo), anh Lý Quốc N không biết bị cáo sử dụng xe mô tô đi mua ma túy để tàng trữ, sử dụng.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng. Về điều luật áp dụng: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo, bị cáo không biết chữ, nhận thức còn hạn chế; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam.

Đại diện Viện Kiểm sát không nhất trí với đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo vì không có căn cứ.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lý Văn N đều khai nhận hành vi phạm tội, nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn; nhất trí với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo. Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

Anh Lý Quốc N trình bày: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1- 099.** là xe của anh, do anh đi làm tiết kiệm tiền mua; sáng ngày 07/8/2019 khi ngủ dậy không thấy xe đâu, bản thân anh vẫn giữ giấy tờ xe. Anh không biết bố anh (Lý Văn N) lấy xe đi lúc nào và không biết Lý Văn N sử dụng xe để đi mua ma túy tàng trữ để sử dụng. Anh đề nghị Tòa án xem xét trả lại cho anh chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12V1- 099.** và giấy đăng ký xe để anh có phương tiện đi lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 07/8/2019, tại đoạn đường thuộc thôn Đ, xã N, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, tổ công tác Công an huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã phát hiện bắt quả tang Lý Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 19 (mười chín) gói ma túy heroine, có khối lượng là 0,614 gam (đã trừ bì); cùng ngày cơ quan điều tra đã khám xét nơi ở của Lý Văn N và thu giữ 01 (một) gói ma túy heroine, có khối lượng 0,032 gam (đã trừ bì). Lý Văn N khai nhận toàn bộ số ma túy trên, Lý Văn N mua về tàng trữ với mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được, Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lý Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 16/6/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 28/12/2018 chấp hành xong hình phạt tù, đến nay chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo đã bị kết án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, sau khi ra tù bị cáo lại tiếp tục sử dụng ma túy, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 20/9/2019 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, gia đình thuộc hộ nghèo, bản thân nghiện ma túy; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy khối lượng ma túy còn lại sau giám định được để trong 02 (hai) phong bì thư niêm phong theo quy định và toàn bộ các vỏ bao gói, đồ đựng ma túy, là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Lý Văn N 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Lý Văn N và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel và 01 (một) sim Vinaphone, màn hình bị vỡ; số tiền 700.000 (bẩy trăm nghìn) đồng là giấy tờ, tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Trả lại cho anh Lý Quốc N: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu đen đã qua sử dụng có biển kiểm soát 12V1- 099.** và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy mang tên Lý Quốc N là tài sản của anh Lý Quốc N không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

[10] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn và đề nghị của người bào chữa cho bị cáo về tội danh, hình phạt và xử lý vật chứng phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với đề nghị của người bào chữa cho rằng bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế, đề nghị cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự không có căn cứ chấp nhận; bởi lẽ bị cáo đã từng bị kết án về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, đã được cải tạo, giáo dục và nhận thức rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật.

[12] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết họ, tên và địa chỉ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không làm rõ được, do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[13] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.


QUYẾT ĐỊNH


Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lý Văn N phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lý Văn N 02 (hai) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 07/8/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì thư niêm phong mặt trước ký hiệu bằng chữ viết tay “QT Lý Văn N” và 02 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn ở phần giáp lai cùng chữ ký của Hoàng Mạnh H, Nguyễn Xuân Đ; mặt sau có 05 hình dấu của Công an xã N, huyện V ở phần giáp lai và các chữ ký của Chu Hồng T, Lý Văn P1, Phùng Văn T, Dương Công Đ và dấu vân tay trỏ bên phải của Lý Văn N. Bên trong có: 01 (một) gói giấy đựng tổng cộng 0,478 gam heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết), 01 (một) lọ nhựa màu trắng có nắp đậy màu vàng và toàn bộ các vỏ bao gói.

+ 01 (một) phong bì thư niêm phong mặt trước ký hiệu bằng chữ viết tay “Khám xét Lý Văn N” và 02 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn ở phần giáp lai cùng chữ ký của Hoàng Mạnh H, Nguyễn Xuân Đ; mặt sau có 05 hình dấu của Công an xã N, huyện V ở phần giáp lai và các chữ ký của Chu Hồng T, Lý Văn P2, Lý Văn P1, Dương Công Đ và dấu vân tay trỏ bên phải của Lý Văn N. Bên trong có: 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,018 gam heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết).

3.2. Trả lại cho bị cáo Lý Văn N:

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân mang tên Lý Văn N.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu vàng đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel và 01 (một) sim Vinaphone, màn hình bị vỡ;

+ 700.000 (bẩy trăm nghìn) đồng tiền Việt Nam, được để trong 01 (một) phong bì niêm phong, mặt trước có ký hiệu chữ viết tay Lý Văn N, hai hình dấu của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Lạng Sơn và chữ ký của Ngô Văn Đ. Mặt sau có bốn hình dấu của Công an xã N, các chữ ký của Chu Hồng T, Dương Công Đ, Phùng Văn T, Lý Văn P1 và dấu vân tay Lý Văn N.

3.3. Trả lại cho anh Lý Quốc N:

+ 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA màu đen đã qua sử dụng, biển kiểm soát 12V1-099.**;

+ 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy mang tên Lý Quốc N do Công an huyện V cấp ngày 25/01/2017.

(Các vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo mô tả tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 16/10/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Lý Văn N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:80/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về