Bản án 80/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 80/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Trong ngày 27 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 358/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2018 về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: Tổ 1, ấp B Đ, xã T P, huyện T B, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Huệ S, sinh năm 1989; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 1, ấp B Đ, xã T P, huyện T B, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ cư trú hiện nay: Tổ 1, khu phố 3, thị trấn T C, huyện T C, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/6/2018 cùng các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng T trình bày:

Anh và chị S đã ly hôn với nhau theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 07/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Theo quyết định này thì về con chung anh tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thành P, sinh ngày 15/6/2010, chị S tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, sinh ngày 24/3/2013. Tuy nhiên, từ tháng 01/2018 đến nay chị S đã làm công nhân ở Khu công nghiệp Chà Là thuộc huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh nên giao con chung tên Trà M cho mẹ chị S nuôi dưỡng. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên mẹ chị S phải đi làm thuê ở Chàng Riệc thuộc huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh và dẫn Trà M theo đi cùng. Anh nhận thấy hoàn cảnh chị S khó khăn, không đủ điều kiện chăm sóc cho Trà M nên yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con đối với con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, anh không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra, anh không có yêu cầu gì khác.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Huệ S trình bày:

Chị thống nhất với lời trình bày của anh T về việc chị và anh T đã thuận tình ly hôn như trên. Chị không đồng ý với yêu cầu xin thay đổi người nuôi con của anh T vì chị vẫn đảm bảo việc nuôi dưỡng cháu Trà M. Hiện nay, cháu Trà M đã được chị cho nhập học tại Trường mầm non thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Chị cũng không ngăn cản việc anh T thăm con. Việc anh T cho rằng mẹ chị S dẫn theo cháu Trà M đi Chàng Riệc ở là không đúng. Khi đó đang nghỉ hè, cháu M muốn đi theo bà Ngoại chơi 1-2 ngày rồi về chứ không ở với bà Ngoại tại nơi bà Ngoại làm việc.

Nay chị không đồng ý với yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con của anh T đối với con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M. Ngoài ra, chị không có yêu cầu gì khác.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã thụ lý và giải quyết vụ án đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; không xảy ra vi phạm về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án để xử theo hướng:

+ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T đối với chị S về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

+ Anh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận công khai tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về nội dung vụ án:

[1.1] Anh T và chị S đều thừa nhận anh chị đã thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 07/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12/01/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Theo Quyết định này thì anh T tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thành P, sinh ngày 15/6/2010; chị S tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, sinh ngày 24/3/2013.

[1.2] Tại phiên tòa, anh T cho rằng chị S không đủ điều kiện nuôi con, không đảm bảo việc chăm sóc cho con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M và mong muốn hai con của anh được sống chung với nhau nên anh yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Chị S không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh T.

[1.3] Xét yêu cầu và lời trình bày của anh T và chị S thấy rằng: Căn cứ để anh T yêu cầu thay đổi người nuôi con là do chị S đi làm xa, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không đủ điều kiện tốt nhất để nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trà M và mong muốn hai con của anh được sống chung với nhau. Tuy nhiên, anh cũng thừa nhận nếu được nuôi cháu Trà M thì anh cũng nhờ cha mẹ ruột anh trông nom, chăm sóc còn anh phải đi làm không có điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc cháu Trà M được. Hiện nay, cháu Trà M đang học tại Trường Mầm non thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Chị S vẫn đảm bảo được việc nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trà M. Chị S không vi phạm nghĩa vụ nuôi con, không ngăn cản việc thăm nom con chung sau ly hôn của anh T. Cháu Trà M là con gái nên được người mẹ nuôi dưỡng sẽ tốt hơn cho sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của cháu hiện tại và sau này. Ngoài ra, anh T và chị S đã ly hôn với nhau nên mong muốn của anh T là cho hai con của anh được sống chung với nhau là không phù hợp với hoàn cảnh thực tế này. Do đó, có đủ cơ sở xác định yêu cầu thay đổi người nuôi con của anh T không phù hợp với quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[2] Về án phí: Anh T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hoàng T đối với chị Nguyễn Thị Huệ S về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn đối với con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, sinh ngày 24/3/2013.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Hoàng T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0025595 ngày 11/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; anh Nguyễn Hoàng T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 80/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:80/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về