Bản án 79/2019/HSST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 79/2019/HSST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2019/HSST ngày 03 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Tuấn A - Sinh năm: 1987. (Có mặt)  

Nơi ĐKTT: Số 585 đường Ngô Quyền, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở: Như trên.

Nghề nghiệp: Kỹ sư xây dựng - Trình độ văn hóa: 12/12 - Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam - Tôn giáo: Không - Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Phạm Văn T (1956) và bà Trần Thị Minh N (1956).

* Tiền án, Tiền sự: Chưa.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam: ngày 09/01/2019 đến nay.

* Người làm chứng :

1. Chị Huỳnh Thị Lan A – sinh năm: 1990. (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 260 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

2. Anh Tô Thanh B – sinh năm: 1990. (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 260 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Tuấn A bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy (loại Ketamine) từ giữa năm 2018. Vào khoảng 14 giờ ngày 27/12/2018, do có nhu cầu sử dụng ma túy, Tuấn A mua của một người tên Tuấn (chưa rõ nhân thân và địa chỉ) 02 bịch ma túy (01 bịch có rãnh gài màu cam và 01 bịch có rãnh gài màu đỏ) với giá 1.000.000 đồng ở trước quán “Bảo Anh 2”, ở số 15/4 đường Bà Triệu, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, nhưng chưa trả tiền. Đến 16 giờ cùng ngày, Tuấn A đem 1.000.000 đồng đến khu vực đường Lạc Hồng, phường Vĩnh Lạc đưa cho Cường (chưa rõ nhân thân và địa chỉ) để trả tiền mua ma túy của Tuấn.

Sau khi có ma túy, ngày 02/01/2019 khi đi dự sinh nhật bạn ở quán Bar “ZEN CLUB” ở số 71-73 đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc, Tuấn A lấy một ít ma túy ở bọc nylon có rãnh gài màu cam ra sử dụng cùng bạn gái là Huỳnh Thị Lan A và một số người bạn (không rõ tên thật, địa chỉ). Số ma túy còn lại của bịch có rãnh gài màu cam Tuấn A để vào hộp thuốc Salonpas cất giấu trên đầu tủ lạnh, còn bịch ma túy có rãnh gài màu đỏ Tuấn A để trong bóp của mình rồi cất giấu trên tủ tivi của phòng trọ số 04, nhà trọ số 260 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang của chị Huỳnh Thị Lan A.

Đến khoảng 07 giờ ngày 09/01/2019, Tuấn A đến phòng trọ và thực hiện hành vi hiếp dâm đối với chị Huỳnh Thị Lan A, nên chị Lan A đến Công an phường Vĩnh Quang trình báo sự việc. Qua làm việc và khám nghiệm hiện trường, lực lượng Công an đã phát hiện 02 bịch ma túy Phạm Tuấn A đã cất giấu và tàng trữ ở những vị trí nêu trên trong phòng chị Lan A.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Tuấn A đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã nêu trên.

* Tại Bản kết luận giám định số: 118/KL-KTHS ngày 14/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận như sau:

- Các hạt rắn, dạng tinh thể chứa trong 01 (một) bịch nylon kích thước 2,4cm x 2,6cm có rãnh gài màu đỏ, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định có trọng lượng là 0,3119gam.

- Các hạt rắn, dạng tinh thể chứa trong 01 (một) bịch nylon kích thước 4cm x 6cm có rãnh gài màu cam, được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine. Khối lượng mẫu gửi giám định có trọng lượng là 0,8798gam.

Ketamine là chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 35, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. (Bút lục số: 46).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Bản cáo trạng số 75/CT.VKSTPRG ngày 03/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo Phạm Tuấn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Sau khi phân tích và đánh giá mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Tuấn A - mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

* Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị:

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong có ký hiệu vụ số 118, ngày 15/01/2019 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh T và người chứng kiến Trương Xuân Đ, có dấu hình tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số Imei 366793/02/841685/7, đã qua sử dụng, dùng vào việc phạm tội; (Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 45/QĐ-VKSTPRG, ngày 03/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).

Sau khi nghe Kiểm sát viên luận tội, bị cáo đồng ý với quan điểm truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ hành vi sai trái của mình và rất hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bảng Cáo trạng, kết luận điều tra và lời khai của những người tham gia tố tụng khác, cùng các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và vật chứng đã thu giữ. Từ đó có đủ cơ sở kết luận:

Do nghiện ma túy (loại Ketamine) và muốn có ma túy sử dụng, Phạm Tuấn A đã mua của một người tên Tuấn (chưa rõ nhân thân và địa chỉ) 02 bịch ma túy (01 bịch có rãnh gài màu cam và 01 bịch có rãnh gài màu đỏ) với giá 1.000.000 đồng ở trước quán “Bảo Anh 2”, ở số 15/4 đường Bà Triệu, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Sau khi có ma túy, Tuấn A lấy một ít ma túy ở bọc nylon có rãnh gài màu cam ra sử dụng cùng bạn gái là Huỳnh Thị Lan A và một số người bạn (không rõ tên thật, địa chỉ) ở quán Bar “ZEN CLUB” ở số 71-73 đường Tôn Đức Thắng, phường Vĩnh Lạc. Số ma túy còn lại của 02 bịch ma túy Tuấn A cất giấu trong phòng trọ của chị Lan A. Đến khoảng 07 giờ ngày 09/01/2019, Tuấn A đến phòng trọ và thực hiện hành vi hiếp dâm đối với chị Huỳnh Thị Lan A, nên chị Lan A đến Công an phường Vĩnh Quang trình báo sự việc. Qua làm việc và khám nghiệm hiện trường ở phòng trọ số 04, nhà trọ số 260 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang của chị Lan A, lực lượng Công an đã phát hiện 01 bịch ma túy có rãnh gài màu cam Tuấn A để trong hộp thuốc Salonpas cất giấu trên đầu tủ lạnh có trọng lượng 0,8798gam, còn bịch ma túy có rãnh gài màu đỏ Tuấn A để trong bóp của mình rồi cất giấu trên tủ tivi có trọng lượng 0,3119gam, tổng trọng lượng của 02 bịch ma túy là 1,1917gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Tuấn A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bảng Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bản thân bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực hành vi và có học vấn để nhận thức được rằng sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, bất kì ai vi phạm đều bị xử lý nghiêm. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất về ma túy. Bản thân bị cáo Tuấn A là người nghiện ma túy, nên bị cáo rất rõ ảnh hưởng của ma túy đối với sức khỏe, tinh thần của con người và việc sử dụng ma túy cũng là tiền đề tạo ra nhiều tệ nạn xấu, đặc biệt là dễ dẫn đến nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác làm mất trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến bản thân bị cáo nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung, và Nhà nước luôn chú trọng việc đấu tranh phòng ngừa và xử lý nghiêm đối với loại tội phạm này. Nhưng vì để có ma túy sử dụng cho thỏa mãn cơn nghiện của mình, bị cáo vẫn bất chấp pháp luật cố ý mua 02 bịch ma túy của một người thanh niên tên Tuấn (chưa rõ nhân thân và địa chỉ) với giá 1.000.000 đồng để sử dụng trái phép. Do đó cần có một mức hình phạt thật tương xứng đối với tội trạng của bị cáo, và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, đồng thời cũng nhằm ngăn ngừa chung đối với loại tội phạm này trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Hi đồng xét xử xem xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự làm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào được quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo còn sống chung với gia đình và không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt phạt tiền bổ sung; đồng thời bị cáo cũng không có đảm nhiệm chức vụ, không hành nghề cũng như không làm công việc gì nhất định. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

- 01 (một) phong bì niêm phong có ký hiệu vụ số 118, ngày 15/01/2019 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh T và người chứng kiến Trương Xuân Đ, có dấu hình tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số Imei 366793/02/841685/7, đã qua sử dụng, đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội, căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu sung quỹ Nhà nước là phù hợp.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 99 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác của vụ án:

- Đối với hành vi hiếp dâm của Phạm Tuấn A, trong quá trình điều tra người bị hại Huỳnh Thị Lan A đã làm đơn xin rút Đơn yêu cầu khởi tố vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá đã ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 50 ngày 28/02/2019 (Bút lục: 41, 42).

- Đối với người tên Tuấn, Cường và người thanh niên (đều chưa rõ tên thật, địa chỉ) đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Phạm Tuấn A, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

- Đối với Huỳnh Thị Lan A đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ về địa phương để xử lý hành chính theo thẩm quyền.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Tuấn A – 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (ngày 09/01/2019) và tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

* Về biện pháp tư pháp: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong có ký hiệu vụ số 118, ngày 15/01/2019 có chữ ký của giám định viên Thái Thị Thanh T và người chứng kiến Trương Xuân Đ, có dấu hình tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, số Imei 366793/02/841685/7, đã qua sử dụng, dùng vào việc phạm tội;

(Theo Quyết định chuyển giao vật chứng số 45/QĐ-VKSTPRG, ngày 03/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá).

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (23/5/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

374
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HSST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về