Bản án 79/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 79/2019/HS-ST NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị V, sinh ngày 29/7/196A tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 15/240 T.H, phường T.C, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức L và bà Phạm Thị G (đều đã chết); có chồng là Trần Quang B và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 20/12/2018; tạm giam ngày 24/12/2018; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 45’ ngày 20/12/2018, V đang ở nhà một mình thì nhận được điện thoại gọi đến của 01 nam giới (không rõ lai lịch) hỏi mua 8.000.000 đồng Heroine và bảo V chia làm 02 túi rồi mang đến cho anh ta, anh ta đi xe mô tô Wave màu xanh đứng đợi ở ngách đầu tiên bên phải khu vực ngõ Lâm Tường, Lê Chân, Hải Phòng, V đồng ý nhận lời và đi một mình bằng xe đạp điện ninja màu trắng mang theo 01 túi nilon màu trắng bên trong có một vỏ hộp thuốc tây bằng nhựa màu trắng chứa 09 gói Heroine được gói bằng giấy bạc treo ở ghi đông xe bên phải đi đến khu vực chắn tàu Cát Cụt để mua Heroine bán lại cho nam giới đó kiếm lời. Tại khu vực chắn tàu Cát Cụt, V gặp một nam giới (chưa xác định được lai lịch) và hỏi mua của nam giới này 7.000.000 đồng Heroine, nam giới trên đồng ý. V đưa tiền cho nam giới trên và nói chia Heroine làm hai túi. Nam giới nhận tiền rồi đi theo hành lang đường tàu về phía khu vực cầu Tam Bạc được khoảng 05 phút thì quay lại và đưa cho V 01 túi nilon màu đen. V mở ra kiểm tra thấy bên trong có 02 túi nilon nhỏ màu đen nên nghĩ là trong hai túi nilon màu đen này là Heroine nên không mở ra kiểm tra nữa mà buộc lại rồi treo ở ghi đông bên phải xe đạp điện đang đi, cùng chỗ với 09 gói Heroine treo ở đó lúc trước. Sau đó V điều khiển xe đạp điện đi đến điểm hẹn ( khu vực ngõ Lâm Tường) để bán Heroine cho nam giới hỏi mua lúc trước, V chưa kịp gặp người nam giới hỏi mua Heroin thì đã bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ tại khu vực cửa nhà số 14 Lâm Tường, Lê Chân, Hải Phòng. Thu giữ trên ghi đông bên phải xe đạp điện V đang điều khiển 01 túi nilon màu trắng bên trong có 01 vỏ hộp thuốc tây bằng nhựa màu trắng chứa 09 gói chất bột màu trắng được gói bằng giấy bạc và 01 túi nilon màu đen, bên trong có 02 túi nilon nhỏ màu đen, bên trong mỗi túi nilon nhỏ màu đen có 02 gói giấy nhỏ màu trắng, trong mỗi gói giấy màu trắng có 01 túi nilong đựng chất bột màu trắng nghi là Heroine (tổng là 04 túi nilon). Ngoài ra Cơ quan Công an còn thu giữ của V 01 xe đạp điện nhãn hiệu Ninja màu trắng đã cũ, 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ cùng số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó lực lượng Công an đã đưa V cùng vật chứng về trụ sở lập biên bản phạm tội quả tang. Đối với nguồn gốc 09 gói giấy bạc chứa Heroine bị thu giữ, V khai mua của một nam giới không quen biết tại khu vực đường tàu Cát Cụt từ ngày 17/12/2018 với giá 100.000 đồng/gói, mục đích để bán lại cho người nghiện với giá 150.000đồng/gói. Sau khi mua về V vẫn treo ở ghi đông xe đạp điện, V chưa bán được cho ai thì đã bị bắt giữ.

Ngày 20/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị V tại số 15/240 T.H, quá trình khám xét không thu giữ đồ vật tài sản gì có liên quan.

Tại Bản kết luận giám định số 673/KLGĐ(Đ6) ngày 24/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Chất bột màu trắng trong 04 túi nilon thu giữ của Nguyễn Thị V là ma túy, có khối lượng 7,3093 gam, là loại:Heroine. Chất bột màu trắng trong 09 gói giấy bạc thu giữ của Nguyễn Thị V là ma túy, có khối lượng 1,4248 gam, là loại Heroine”.

Tại Bản cáo trạng số 78/CT-VKS ngày 24/4/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Nguyễn Thị V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b và điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b và điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị V mức án từ 09 đến 10 năm tù. phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 05 đến 10 triệu đồng, sung quỹ nhà nước.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong đựng vỏ bao gói và lượng ma túy còn lại sau giám định (số 673/2018/PC09); 01 vỏ hộp thuốc tây bằng nhựa màu trắng có nắp đóng mở. Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01xe đạp điện nhãn hiệu ninja màu trắng đã cũ và 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo. Trả lại cho bị cáo số tiền 2.000.000đ (hai triệu đồng) là tài sản riêng của bị cáo, nhưng cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng thu giữ; Bản kết luận giám định số 673/KLGĐ(Đ6) ngày 24/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; lời khai đó khẳng định: Nguyễn Thị V có hành vi cất giữ trái phép 8,7341 gam Heroine để bán lại cho người khác nhằm mục đích kiếm lời và bị bắt quả tang tại khu vực trước cửa nhà số 14 Lâm Tường, quận Lê Chân, Hải Phòng. Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[3] Từ ngày 17/12/2018 đến ngày 20/12/2018 Nguyễn Thị V đã 02 lần thực hiện hành vi mua trái phép chất ma túy (ngày 17/12/2018 mua 1,4248 gam Heroine và ngày 20/12/2018 mua 7,3093 gam Heroine, tổng là 8,7341 gam Heroine) mục đích để bán kiếm lời. Đây là các tình tiết tặng nặng định khung hình phạt được quy định tại điểm b, điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Nguyễn Thị V theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý chất gây nghiện và là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án nên phải xử lý nghiêm.

[6] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị V không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự; tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm mục đích lợi nhuận.Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự: Phạt tiền bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Đối với 01 phong bì niêm phong số 673/2018/PC09 đựng lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật sau khi lấy mẫu gửi giám định; 01 vỏ hộp thuốc tây bằng nhựa màu trắng có nắp đóng mở thu giữ của bị cáo, xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.

[9] Đối với 01 xe đạp điện nhãn hiệu ninja màu trắng đã cũ, 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo, xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[10] Đối với số tiền 2.000.000đồng thu giữ của bị cáo, xét đây là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên không có cơ sở để tịch thu, nhưng cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành khoản tiền án phí và tiền phạt đối với bị cáo.

[11] Đối với người nam giới hỏi mua ma túy của V, V khai không biết tên, địa chỉ, không nhớ số điện thoại, kết quả kiểm tra chi tiết điện thoại không có nội dung thu giữ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra, xử lý.

[12] Đối với người nam giới bán ma túy cho V vào ngày 17/12/2018 và ngày 20/12/2018, V khai không biết tên, địa chỉ, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra, xử lý.

[13] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị V 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 20 tháng 12 năm 2018.

Phạt tiền bị cáo 5.000.000đ (năm triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong (số 673/2018/PC09) đựng lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì của mẫu vật thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định (vật nhà nước cấm lưu hành); 01 vỏ hộp thuốc tây bằng nhựa màu trắng có nắp đóng mở (không còn giá trị sử dụng).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01xe đạp điện nhãn hiệu ninja màu trắng đã cũ; 01 điện thoại di động Nokia màu đen đã cũ thu giữ của bị cáo (Công cụ, phương tiện phạm tội)

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành khoản tiền án phí và tiền phạt đối với bị cáo.

(Theo Biên lai thu tiền số 0004346 ngày 25/4/2019 của Chi cục Thi hành án quận Lê Chân).

Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/4/2019 giữa Cơ quan Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Thị V phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

- Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 79/2019/HS-ST ngày 12/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:79/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về