Bản án 78/2021/HS-ST ngày 17/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 78/2021/HS-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 17 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 86/2021/HSST ngày 20 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2021/QĐXXST-HS ngày 4 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Hàng A T, sinh năm 1992, tại huyện Sông M, tỉnh Sơn La Trú tại: Bản Co T, xã Chiềng C, huyện Sông M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Mông; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt nam; con ông Hàng A V và bà Giàng Thị G; có vợ là Giàng Thị L và 04 con.

Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2021 cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 35 phút ngày 06/01/2021 Tổ công tác Công an xã Chiềng Cang, Sông Mã làm nhiệm vụ phòng chống ma túy tại bản Co Tòng, Chiềng Cang, Sông Mã phát hiện một người đàn ông đang điều khiển xe mô tô đi theo hướng bản Co Tòng – Huổi Dấng có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính đối tượng khai tên là Hàng A Tộng, sinh năm 1992 trú tại bản Co T, Chiềng C, Sông M, qua kiểm tra phát hiện tại túi áo khoác bên phải đang mặc của T 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 53 viên nén hình tròn màu hồng (T khai nhận là Hồng phiến) mang đi để sử dụng, tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu DETECH loại xe Win, BKS 26K7 – 2548, số khung 120644, số mày 120644, xe đã qua sử dụng.

Ngày 07/01/2021 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả: 53 viên nén hình tròn màu hồng có tổng khối lượng 5,10 gam, sử dụng 05 viên có tổng khối lượng 0,50 gam để giám định ký hiệu H1. Vật chứng còn lại 48 viên có tổng khối lượng 4,60 gam ký hiệu H2.

Tại Kết luận giám định số 188 ngày 08/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,50 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 5,10 gam, loại Methamphetamine Quá trình điều tra bị cáo Hàng A T khai nhận hành vi phạm tội như sau:

Hàng A T sử dụng ma túy từ năm 2020. Khoảng 14 giờ ngày 06/01/2021 Hàng A T điều khiển xe mô tô BKS 26K7 – 2548 từ nhà ở bản Co T, Chiềng C đến khu vực nương của bản Co T để tìm gỗ về sửa nhà, khi đi T mang theo số tiền 500.000vnđ, sau khi tìm không được gỗ T quay về nhà, trên đường về T gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết đang đứng ở lề đường, T đi đến gần hỏi mua hồng phiến, người phụ nữ đồng ý bán nên T lấy 500.000vnđ ra đưa cho người này, người phụ nữ nhận tiền rồi lấy từ trong người ra đưa cho T 01 túi nilon màu xanh bên trong có chứa viên hồng phiến, T nhận rồi cất vào trong túi áo khoác bên phải đang mặc rồi điều khiển xe đi về, trên đường về đến gần nhà thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Cang, Sông Mã kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng cùng tài sản đồ vật như đã nêu trên.

Cáo trạng số: 51/CT-VKS ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử bị cáo Hàng A T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Hàng A T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hàng A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Hàng A T: Từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù;

Đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng và án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Hàng A T không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cở sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã lập vào hồi 18 giờ 35 phút, ngày 06/01/2021, bắt quả tang Hàng A T có hành vi cất giấu 5,10 gam ma túy, loại Methamphetamine.

- Vật chứng bị thu giữ 53 viên nén màu hồng, có khối lượng 5,10 gam; Kết luận giám định số 188 ngày 08/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là ma túy; Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,50 gam.

- Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 5,10 gam, loại Methamphetamine”.

- Lời khai của bị cáo về việc ngày 06/01/2021 có mua được 53 viên hồng phiến với giá 500.000đ của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết ở khu vực thuộc bản Co Tòng, Chiềng Cang, Sông Mã, mục đích để sử dụng.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện tội phạm.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS là đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 06/01/2021 bị cáo Hàng A T đã có hành vi tàng trữ 5,10 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi mà bị cáo Hàng A T thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ năm năm đến mười năm tù.

[3] Về tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện ở việc bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về các tình tiết, đối tượng có liên quan:

Đối với người phụ nữ dân tộc Mông không rõ lai lịch là người đã bán ma tuý cho bị cáo tại khu vực thuộc bản Co Tòng, Chiềng Cang, Sông Mã ngày 06/01/2021. Do không xác định được tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

Đối với chiếc xe môtô nhãn hiệu DETECH kiểu xe Win BKS 26K7 – 2548 thu giữ của bị cáo Hạng A T, giấy đăng ký mang tên Hàng A V; trú tại bản Co T, Chiềng C, Sông Mã. Qua xác minh điều tra xác định chiếc xe mô tô của Hàng A Ch (là em trai của T), trú tại bản Co T, Chiềng C, Sông M mua lại của V vào tháng 10/2020 với giá 3.000.000vnđ, khi Tộng hỏi mượn xe để đi tìm gỗ về sửa nhà nhưng sau đó T sử dụng để đi mua ma túy thì Ch không biết, ngày 12/4/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã đã trả xe mô tô cho Hàng A Ch quản lý và sử dụng, nên cần được chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Mã gồm: Túi nilon màu xanh chứa 48 viên nén màu hồng hình tròn ký hiệu H2 có tổng khối lượng 4,60 gam, loại Methamphetamine; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Hàng A T thuộc đối tượng hộ nghèo nên có thể được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo: Hàng A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo: Hàng A T 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/01/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Áp dụng c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu huỷ: Túi nilon màu xanh chứa 48 viên nén màu hồng hình tròn ký hiệu H2 có tổng khối lượng 4,60 gam, loại Methamphetamine; 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 14 giờ 45 phút ngày 20 tháng 4 năm 2021 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Hàng A T được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2021/HS-ST ngày 17/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:78/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về