Bản án 78/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 78/2019/HS-ST NGÀY 24/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 7 năm 2019, tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2019/TLST-HS ngày 21/6/2019, theo Quyết định đưa vụ án xét xử số 74/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh ngày: 10/01/1986. Nơi cư trú: Thôn 4, xã Th, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hóa: Lớp 12/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn Ch và bà Nguyễn Thị Tr. Vợ là Hoàng Thị Thu H1; có 03 con: con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không. Bị giữ khẩn cấp ngày 15/4/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Uông Bí, có mặt.

2. Họ và tên: Trần Quang An, sinh ngày: 27/9/1987. Nơi cư trú: Thôn H, xã L, huyện TN, thành phố Hải Phòng. Nghề nghiệp: Lái xe taxi. Trình độ văn hóa: Lớp 7/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trần Quang Ch1 và bà Đặng Thị D. Vợ là Trần Thị H2; có 02 con: con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không. Bị giữ khẩn cấp ngày 15/4/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Uông Bí, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1985. Địa chỉ: T, TN, Hải Phòng, vắng mặt.

2. Anh Đào Văn Ph, sinh năm 1987. Địa chỉ: T, TN, Hải Phòng, vắng mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh Đỗ Đức Đ, sinh năm 1983. Đại chỉ: Tr, U, Quảng Ninh, vắng mặt.

2. Anh Đặng H3, sinh năm 1983. Địa chỉ: Ph, U, Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 20 giờ 55 phút ngày 14/4/2019, tổ công tác phương án 12- Công an tỉnh Quảng Ninh khi làm nhiệm vụ tại đoạn đường Km 77 + 800 Quốc lộ 18A, thuộc phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã tiến hành kiểm tra xe ô tô taxi mang biển kiểm soát (BKS) 15A-104.08 do anh Đào Văn Ph điều khiển hướng đi Hải Phòng - Uông Bí. Trên xe có 04 (bốn) người là anh Đào Văn Ph, anh Nguyễn Văn S, bị cáo Nguyễn Văn H và bị cáo Trần Quang A. Quá trình kiểm tra phát hiện, thu giữ dưới tấm lót sàn phía sau ghế lái (ngay chỗ bị cáo A ngồi) có 01 (một) gói giấy màu trắng, bên trong có chứa 02 (hai) viên nén hình trụ tròn màu xanh (trên mặt mỗi viên đều in hình động vật) và ½ viên nén hình trụ tròn màu xanh. Bị cáo H và bị cáo A khai nhận đó là ma túy loại lắc H đưa cho A cất giấu khi có Công an kiểm tra.

Ngày 15/4/2019, Công an tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với các bị cáo H và A. Tạm giữ của bị cáo Hùng: 01 (một) chiếc điện thoại di động Iphone cùng sim số 0364.030.638 và số tiền 13.500.000đ (mười ba triệu, năm trăm nghìn đồng). Tạm giữ của bị cáo A: 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia cùng sim số 0778.385.699, 01 (một) chiếc điện thoại di động Masstel cùng sim số 0845.2700.987, 01 (một) ví giả da màu nâu trong có 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng), 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số KC8072753, 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc, 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 012520 của xe ô tô BKS 15A- 104.08, 01 (một) chiếc xe ô tô Toyota Vios màu đen, BKS 15A-104.08.

Bản kết luận giám định số 318/GĐMT ngày 17/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại: MDMA; khối lượng: 0,752g (không phảy bảy trăm năm mươi hai gam).

Bản kết luận giám định số 319/GĐMT ngày 18/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Trong mẫu nước tiểu ghi thu của Đào Văn Ph gửi giám định không có chất ma túy và sản phẩm chuyển hóa của chất ma túy. Trong mẫu nước tiểu ghi thu của Nguyễn Văn H, Trần Quang A, Nguyễn Văn S có chất ma túy, loại MDMA.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Quang H và Trần Quang A đều khai nhận: A là lái xe taxi hợp đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải thủy bộ N, được giao quản lý xe ô tô Toyota Vios, BKS 15A-104.08. Vào tối ngày 14/4/2019, A điều khiển xe ô tô trên đến đón Nguyễn Văn H và các anh Đào Văn Ph, Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn Ph2, Nguyễn Văn L và Đào Mạnh Tr cùng đi ăn thịt mèo tại xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi ăn xong, tất cả rủ nhau sang thành phố Uông Bí chơi, do bị say rượu nên A để anh Ph điều khiển xe ô tô. Khi đi đến ngã ba Đông Sơn, thuộc xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, các anh Tr, L, Ph2 xuống xe bảo sang sau. Lúc này, Ph có đưa cho H 05 (năm) viên nén hình trụ tròn màu xanh lá (là ma túy loại thuốc lắc) để H sử dụng. Khi xe đến khu vực đầu cầu Đá Bạc (thuộc địa phận thành phố Hải Phòng), Hùngđưa cho An và Sáng mỗi người một viên thuốc lắc bảo để dùng thử, Sáng sử dụng hết viên thuốc lắc Hùngđưa, còn An dùng nửa viên và đưa cho Hnửa viên còn lại, đồng thời An đưa cho Htờ giấy để gói số ma túy chưa dùng. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi xe đến đoạn đường thuộc tổ 33, khu cầu Sến, phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, thấy có công an ra tín hiệu dừng xe, Hđã đưa gói giấy gói ma túy cho An, An giấu gói ma túy bên dưới tấm lót sàn chỗ mình ngồi. Ngay sau đó, H và An bị bắt, Cơ quan điều tra đã thu giữ số ma túy trên. H và An khai mục đích cất giấu số ma túy trên để công an không phát hiện được, sau đó để sử dụng.

Lời khai của những người làm chứng:

Anh Nguyễn Văn S khai: Khoảng 18 giờ ngày 14/4/2019 trong lúc ngồi uống nước với các anh: Đào Văn Ph, Nguyễn Văn Ph2, Đào Mạnh Tr, Nguyễn Văn L và bị cáo Nguyễn Văn H tại một quán nước vỉa hè thuộc thôn 4, xã Thủy Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, cả nhóm đã bàn bạc thống nhất với nhau sẽ đi uống rượu rồi đi đến một quán bar ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Ph là người ứng tiền chi tiêu, sau khi về cả nhóm sẽ đóng góp tiền trả cho Ph. Bàn bạc thống nhất với nhau xong, Ph2 gọi điện thoại cho bị cáo A bảo lái xe taxi đến đón tất cả đi ăn uống tại một quán thịt mèo tại xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Khoảng 05 phút sau, bị cáo A lái xe taxi nhãn hiệu Toyota Vios, màu sơn đen, BKS 15A-104.08 đến đón nhóm đi ăn. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi ăn uống xong, cả nhóm lên xe ô tô của bị cáo A để đi chơi, Phong điều khiển xe thay A để chở mọi người đi thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Khi đi đến khu vực ngã ba Đông Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thì các anh Ph2, Tr, L xuống xe, trên xe còn lại bốn người gồm: Ph (lái xe), bị cáo H ngồi tại vị trí ghế phụ bên cạnh Ph, bị cáo A ngồi tại hàng ghế sau, phía sau Ph, anh ngồi tại hàng ghế sau, phía sau bị cáo H. Khi xe đi đến khu vực cầu Đá Bạc thuộc địa phận thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thì H đưa cho anh và A mỗi người một viên nén hình trụ tròn màu xanh và bảo anh và A nhai nuốt. Anh cầm viên nén này và xác định đây là viên ma túy dạng lắc, thường gọi là thuốc lắc nên đã cho vào miệng nhai nuốt, còn A sử dụng viên ma túy không thì anh không để ý. Một lát sau anh thấy H bảo A đưa cho H một mảnh giấy nhưng anh không biết H dùng mảnh giấy để làm gì. Khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, khi xe đi đến khu vực Km77 + 800 Quốc lộ 18 thuộc tổ 33, khu Cầu Sến, phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thì bị tổ công tác phương án 12 - Công an tỉnh Quảng Ninh làm nhiệm vụ tại đây yêu cầu dừng xe kiểm tra. Anh nhìn thấy H đưa cho A 01 (một) gói giấy màu trắng H đang cầm ở tay đưa cho A và bảo A giấu đi. Anh nhìn thấy A cất giấu gói giấy H đưa tại vị trí phía dưới tấm lót sàn phía sau ghế lái, chỗ để chân trước mặt A ngồi. Quá trình kiểm tra lực lượng công an đã phát hiện thu giữ tại phía dưới tấm lót sàn phía sau ghế lái, chỗ để chân trước mặt A ngồi có 01 (một) gói giấy màu trắng, bên trong có 02 (hai) viên nén hình trụ tròn màu xanh, trên một bề mặt mỗi viên đều in hình biểu tượng đầu động vật và ½ viên nén hình trụ tròn màu xanh. Anh nghe thấy H và A khai với cơ quan công an đây là ma túy dạng thuốc lắc mà H đưa cho A cất giấu trước khi lực lượng công an kiểm tra. Anh khai nhận không biết bên trong gói giấy chứa vật gì (bút lục số 106 đến 119).

Anh Đào Văn Ph khai: Khoảng 18 giờ ngày 14/4/2019, trong lúc anh ngồi uống nước với các anh: Nguyễn Văn S, Nguyễn Văn Ph2, Đào Mạnh Tr, Nguyễn Văn L và bị cáo Nguyễn Văn H tại quán nước vỉa hè, cả nhóm đã bàn bạc thống nhất với nhau sẽ cùng đi uống rượu rồi đi đến một quán bar ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh để nghe nhạc. Ph2 là người ứng tiền chi tiêu sau khi về cả nhóm sẽ đóng góp tiền trả cho Ph2. Bàn bạc thống nhất xong, anh gọi điện thoại cho bị cáo A bảo lái xe taxi đến đón chở tất cả đi ăn tại một quán thịt mèo tại xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Khoảng 05 phút sau, bị cáo A lái xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios, màu sơn đen, BKS 15A-104.08 đến đón cả nhóm đi ăn uống tại địa điểm trên. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi ăn uống xong cả nhóm lên xe ô tô của A để đi chơi, Ph điều khiển xe ô tô thay A để chở mọi người đi thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Khi đi đến khu vực ngã ba Đông Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thì Ph2, Tr và L xuống xe, trên xe còn lại bốn người gồm: Anh (lái xe), bị cáo H ngồi tại vị trí ghế phụ, cạnh anh; bị cáo A ngồi tại hàng ghế sau, sau anh; anh S ngồi hàng ghế sau, phía sau H. Khoảng 21 giờ cùng ngày, khi xe đi đến khu vực Km77 + 800 Quốc lộ 18A thuộc tổ 33, khu Cầu Sến, phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh thì bị tổ công tác phương án 12 - Công an thành phố Uông Bí làm nhiệm vụ tại đây yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra đã phát hiện thu giữ tại phía dưới tấm lót sàn phía sau ghế lái, chỗ để chân trước mặt A ngồi có 01 (một) gói giấy màu trắng, bên trong có 02 (hai) viên nén hình trụ tròn màu xanh, trên một bề mặt mỗi viên in hình biểu tượng đầu động vật và ½ viên nén hình trụ tròn màu xanh. Anh nghe thấy các bị cáo H, A khai khai với cơ quan công an đây là ma túy dạng thuốc lắc mà H đưa cho A cất giấu trước khi lực lượng công an kiểm tra. Do bận lái xe nên anh không biết việc H đưa thuốc lắc cho S và A sử dụng, cũng như không biết việc H đưa gói ma túy cho A cất giấu khi lực lượng công an kiểm tra (bút lục từ số 106 đến 119).

Lời khai của những người chứng kiến: Anh Đỗ Đức Đ và anh Đặng H3 khai được chứng kiến vào khoảng 20 giờ ngày 14/4/2019, tại đoạn đường Km77 + 800 Quốc lộ 18A, thuộc tổ 33, khu Cầu Sến, phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, cơ quan công an kiểm tra xe ô tô taxi nhãn hiệu Toyota Vios, BKS 15A- 104.08, phát hiện thu giữ phía dưới tấm lót sàn phía sau ghế lái, ngay chỗ để chân trước mặt bị cáo A ngồi có 01 (một) gói giấy màu trắng, bên trong có 02 (hai) viên nén hình trụ tròn màu xanh, trên bề mặt mỗi viên đều in hình biểu tượng đầu động vật và ½ viên nén hình trụ tròn màu xanh. Anh chứng kiến các bị cáo H, A khai với cơ quan công an đây là ma túy loại lắc bị cáo H đưa cho bị cáo A cất giấu trước khi bị lực lượng công an kiểm tra (bút lục số 142 đến 147) Bản cáo trạng số 75/CT-VKSUB ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Quang A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm truy tố với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Quang A, mỗi bị cáo từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy hoàn lại sau giám định; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone cùng sim số liên lạc: 0364.030.638 và số tiền 13.500.000đ (mười ba triệu, năm trăm nghìn đồng); trả lại bị cáo Trần Quang A: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia cùng sim liên lạc: 0778.385.699, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel cùng sim liên lạc: 0845.2700.987, 01 (một) ví giả da màu nâu và số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Quang A thừa nhận hành vi các bị cáo đã thực hiện vào ngày 14/4/2019 như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, của người chứng kiến về thời gian, địa điểm bị cáo thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản kiểm tra (bút lục 70, 71); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (bút lục 72); kết luận giám định mẫu nước tiểu (bút lục số 82) và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án . Các bị cáo khẳng định việc truy tố đối với các bị cáo là đúng; không oan, sai.

Như vậy đủ cơ sở khẳng định: Hồi 20 giờ 55 phút ngày 14/4/2019, tại đoạn đường Km77+800 Quốc lộ 18A, thuộc phường Yên Thanh, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Quang A bị bắt khi đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,752g (không phảy bảy trăm năm mươi hai gam) ma túy, loại MDMA, mục đích để sử dụng.

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Quang A đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước ta. Các bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, mục đích để phục vụ cho việc sử dụng chất ma túy của bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo còn gây mất an ninh trật tự ở địa phương, tiếp tay cho các đối tượng buôn bán ma túy, nên cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung; đáp ứng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Bị cáo H nhận ma túy từ đối tượng tên Phương; khi có công an kiểm tra đã đưa cho bị cáo A để cất giấu. Bị cáo A ngay lập tức nhận ma túy từ bị cáo H và cất giấu, mục đích để công an không phát hiện được, sau đó sử dụng. Vì vậy vai trò của hai bị cáo là ngang nhau và có mức hình phạt ngang nhau.

[6] Về vật chứng:

01 (một) xe ô tô nhãn hiệu Toyots Vios màu sơn đen, BKS 15A-104.08, 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 012520 mang tên Công ty TNHH vận tải thủy bộ N, 01 (một) Giấy chứng nhận kiểm định phương tiện cấp cho xe ô tô BKS 15A-104.08 và 01 (một) Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô BKS 15A-104.08, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là Công ty TNHH vận tải thủy bộ N, nên không đề cập xử lý.

01 (một) phong bì niêm phong ma túy hoàn lại sau giám định, là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy. 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone cùng sim số liên lạc: 0364.030.638 và số tiền 13.500.000đ (mười ba triệu, năm trăm nghìn đồng) thu giữ của bị cáo H. 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia cùng sim liên lạc: 0778.385.699, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel cùng sim liên lạc: 0845.2700.987, 01 (một) ví giả da màu nâu và số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo A. Xét thấy các vật chứng trên đều không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên trả lại cho các bị cáo; riêng số tiền thu giữ của các bị cáo tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đi với người thanh niên tên Nguyễn Văn Ph2 đưa ma túy cho bị cáo H, quá trình điều tra xác định hiện Ph2 vắng mặt tại địa phương, cơ quan điều tra đã tách ra làm rõ xử lý sau, nên không đề cập xem xét.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn S, Công an thành phố Uông Bí đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

[6] Về án phí hình sự: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Quang A phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ: Ngày 15/4/2019.

Xử phạt bị cáo Trần Quang A 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ: Ngày 15/4/2019.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 318/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh, còn nguyên vẹn.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone cùng sim số liên lạc: 0364.030.638 và số tiền 13.500.000đ (mười ba triệu, năm trăm nghìn đồng); riêng số tiền tạm giữ để đảm bảo thi hành án

Trả lại bị cáo Trần Quang A: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia cùng sim liên lạc: 0778.385.699, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel cùng sim liên lạc: 0845.2700.987, 01 (một) ví giả da màu nâu và số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng); riêng số tiền tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Các vật chứng trên thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/6/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh) Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/HS-ST ngày 24/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:78/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về