Bản án 78/2019/HSST ngày 19/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN – TỈNH TN

BẢN ÁN 78/2019/HSST NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 3 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 90/2019/HSST ngày 15/2/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2019/QĐXXST-HS ngày 04/3/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1979, tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 40, phường PĐP, thành phố TN, tỉnh TN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; chức vụ trước khi phạm tội: Không; Con ông: Nguyễn Trọng Đ1 (đã chết); Con bà: Trần Thị H3, sinh năm 1954; Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; có vợ là Trần Thị T, sinh năm 1978, có 01 con sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TN (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/12/2018 đến nay). (Có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1988 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 8, phường PĐP, TP TN, tỉnh TN.

2. Anh Đỗ Ngọc T2, sinh năm 1957 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 38, phường PĐP, TP TN, TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 10 giờ ngày 13/12/2018, tổ công tác của Công an phường PĐP, thành phố TN đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 8 của phường, phát hiện 01 nam thành niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, nam thanh niên tự khai họ tên là Nguyễn Trọng Đ và tự giác khai nhận trong người có ma úy. Tổ công tác kiểm tra, thư giữ tại túi quần bên trái phái trước của Đông đang mặc có 04 gói được gói bằng giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng (Đông khai là Heroine mua để sử dụng cho bản thân). Tạm giữ của Đông 01 thẻ điều trị ma túy số 318 mang tên Nguyễn Trọng Đ, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, số IMEI: 352430084359044, số IMEI: 352430084359051 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đen bạc, BKS 20B1 – 232.60, số khung: BY 149979, số máy: HC12E-2949993. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đông và thu giữ vậy chứng theo đúng quy đinh.

Cùng ngày tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Đông là 0,221 gam (niêm phong lý hiệu D gửi giám định). Tại kết luận giám định số 143/KL-PC09 ngày 20/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất bột mầu trắng trong mẫu D gửi giám định kà chất ma túy loại Heroine, có khối lượng là 0,221 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Trọng Đ khai nhận: Khoảng 9 giờ 45 phát ngày 13/12/2018, Đông điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Hônda Wave , màu đen bạc, BKS 20B1-232.60, số khung BY149979, số máy: HC12E-2949993 một mình đi đến khu vực đường dân sinh khu Trại Bầu thuộc phường Gia Sàng, thành phố TN, mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, Đông gặp và mua 04 gói Heroine đực gói trong bốn gói giấy màu trắng của một người phụ nữ tên Mai, không rõ lai lịch, với giá 400.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, Đông cất số Heroine vào túi quần phái trước bên trái Đông đang mặc và đi tìm nơi để sử dụng. Khi đi đến khu vực ngã 5 đường Hoàng Ngân thuộc tổ 38, phường PĐP, thành phố TN thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên.

Lời khai nhận tội của Nguyễn Trọng Đ phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, biên bản mở niêm phong, cân xác định trọng lượng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 bì niêm phong ký hiệu D; 01 thẻ điều trị ma túy số 318 mang tên Nguyễn Trọng Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, số IMEI: 352430084359044, số IMEI: 352430084359051. Hiện vật chứng trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN.

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đen bạc, BKS 20B1-232.60, số khung: BY 149979, số máy: HC12E-2949993. Hiện đang được tách ra để xử lý trong một vụ án khác.

Tại bản cáo trạng số 92/CT-VKSTPTN, ngày 13/02/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, tỉnh TN đã truy tố Nguyễn Trọng Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Kết thúc phần thẩm vấn, tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN giữ quyền công tố đã công bố bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Nguyễn Trọng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Vt chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu D (bên trong có chứa chất ma túy); 01 thẻ điều trị ma túy số 318 mang tên Nguyễn Trọng Đ; tạm giữ của Đông 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, số IMEI: 352430084359044, số IMEI: 352430084359051 để đảm bảo thi hành án.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đen bạc, BKS 20B1-232.60, số khung: BY 149979, số máy: HC12E-2949993 là tài sản bị trộm cắp trong vụ án khác. Vì vậy, cơ quan điều tra tách chiếc xe trên để xác minh xử lý sau.

- Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không bị oan, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào những chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Trọng Đ tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng đã thu giữ và các chứng cứ, tài liệu khác thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hi 10 giờ ngày 13/12/2018, tại tổ 38, phường PĐP, thành phố TN, Nguyễn Trọng Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,221 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường PĐP, thành phố TN phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi trên của Nguyễn Trọng Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS

[3]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Nội dung điều luật quy định như sau:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ......................................thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm c, Heroine... có khối lượng từ 0,1gam đến 05 gam”.

[4]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS bị cáo được hưởng:

- Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo gây lên mối nguy hại cho xã hội, xâm phạm đến các quy định độc quyền quản lý và sử dụng của Nhà nước về các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây nên tác hại rất xấu cho xã hội, hủy hoại về kinh tế, sức khỏe con người và cũng là nguyên nhân phát sinh ra các tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Do đó, cần có một mức án nghiêm khắc và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội giúp bị cáo cai nghiện và răn đe phòng ngừa tội phạm.

- Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không có tiền sự, tiền án, có nhân thân tốt. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, vì vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 BLHS.

[5]. Về hình phạt: Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo tính nghiêm minh của luật pháp và để bị cáo cai nghiện được ma túy cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với bị cáo, xét thấy có phần nghiêm khắc.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội lẽ ra cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước, nhưng qua xác minh bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản gì riêng, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Về vật chứng vụ án: áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy : 01 (một) bì niêm phong ký hiệu D; 01 thẻ điều trị ma túy số 318 mang tên Nguyễn Trọng Đ.

Đi với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, số IMEI: 352430084359044, số IMEI: 352430084359051 Đông không dùng vào việc liên lạc để mua ma túy, vì vậy tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đi với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đen bạc, BKS 20B1-232.60, số khung: BY 149979, số máy: HC12E-2949993 mà Nguyễn Trọng Đ sử dụng để đi mua Heroine, Đông khai là người bạn nghiện của Đông cho để làm phương tiện đi lại, Đông không biết nguồn gốc của chiếc xe. Quá trình điều tra xác định, chiếc xe có đặc điểm nêu trên là tài sản bị trộm cắp, do anh Nguyễn Trường Minh sinh năm 1982, HKTT tổ 11, phường Trung Thành, thành phố TN trình báo mất ngày 27/10/2015 tại Công an phường Trung Thành, thành phố TN. Vì vậy, cơ quan điều tra tách chiếc xe trên để xác minh xử lý sau.

[8]. Các vấn đề khác: Trong vụ án, Nguyễn Trọng Đ khai có mua ma túy của một người phụ nữ tên Mai, không quen biết, quá trình điều tra không xác định được lai lịch của đối tượng nên cơ quan Công an điều tra thành phố TN không có cơ sở để xử lý.

[9]. Bị cáo phải nộp án phí HSST và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c, khoản 1, Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trọng Đ: 18 (mười tám) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 13/12/2018; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự.: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án;

2. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu D (bên trong có chứa chất ma túy); 01 thẻ điều trị ma túy số 318 mang tên Nguyễn Trọng Đ;

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 01 Điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu đen, số IMEI: 352430084359044, số IMEI: 352430084359051.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 161 ngày 14/2/2019).

+ Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu sơn đen bạc, BKS 20B1-232.60, số khung: BY 149979, số máy: HC12E-2949993 cơ quan điều tra tách chiếc xe trên để xác minh xử lý sau.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí toà án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 78/2019/HSST ngày 19/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:78/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về