TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 78/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 423/2018/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2018 về "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 423/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 423/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm 1984; Địa chỉ: K92/06/88 Đinh Tiên H, tổ 43, phường Tam Th, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng; có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn: Ông Bùi Quang H, sinh năm 1985; Địa chỉ: K160/73 Trần Cao V, phường Tam Th, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Thùy T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Tôi và Ông Bùi Quang H kết hôn vào năm 2005 tại Uỷ ban nhân dân phường Tân C, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân tự nguyện và được gia đình hai bên tổ chức cưới hỏi đầy đủ. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại K160/73 Trần Cao V, phường Tam Th, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2007 thì Ông H lộ rõ bản chất ham chơi, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã xô xác. Tôi đã nhiều lần tạo điều kiện cho Ông H thay đổi bản thân để vợ chồng cùng nuôi dạy con cái nhưng Ông H vẫn chứng nào tật nấy. Hiện nay, vợ chồng chúng tôi đã ly thân và xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với Ông H.
Về quan hệ con chung: Tôi xác định có 02 con chung tên Bùi Quang H1, sinh ngày 12-01-2005 và Bùi Nhã A, sinh ngày 08-8-2017. Hiện hai con đang ở cùng tôi. Ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung cho đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và yêu cầu Ông Bùi Quang H cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn mỗi tháng 1.500.000 đồng / 1 con cho đến khi con đủ tuổi trưởng thành.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng pháp luật.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho bà Nguyễn Thị Thùy T được ly hôn với Ông Bùi Quang H; giao 02 con chung tên Bùi Quang H1, sinh ngày 12-01-2005 và Bùi Nhã A, sinh ngày 08-8-2017 cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng, Ông H không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung không có nên không đề cập đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là Ông Bùi Quang H đã được Tòa án thực hiện các thủ tục triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng đến lần thứ hai vẫn không có mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt đương sự nói trên.
[2] Về nội dung vụ án: Theo nguyên đơn trình bày thì bà và Ông Bùi Quang H cưới nhau và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Tân C, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng vào năm 2005. Vợ chồng chung sống đến năm 2007 thì nảy sinh mâu thuẫn do Ông H ham chơi không chăm lo gia đình. Bà T đã cho Ông H nhiều cơ hội nhưng Ông H vẫn không thay đổi nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với Ông H.
[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thì thấy: Cuộc hôn nhân của bà Nguyễn Thị Thùy T và Ông Bùi Quang H là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Đến nay, bà T cho rằng không chấp nhận được lối sống và không còn tình cảm với Ông H nữa nên có quyền làm đơn khởi kiện xin ly hôn theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn, từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử Ông
Bùi Quang H đều không có mặt theo triệu tập; thông báo của Toà án, không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia các phiên hoà giải và cũng không tham gia phiên toà nên không có ý kiến lưu hồ sơ vụ án. Qua đó, thể hiện Ông H đã không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này, không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình. Kết quả xác minh tại địa phương cho thấy bà T đã dẫn 02 con về nhà mẹ ở, vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẩn vợ chồng ông bà đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được; có kéo dài cuộc hôn nhân này cũng không đem lại kết quả nên cần áp dụng Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Thùy T là hợp tình hợp lý.
[4] Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Thùy T trình bày vợ chồng có 02 con chung tên Bùi Quang H1, sinh ngày 12-01-2005 và Bùi Nhã A, sinh ngày 08- 8-2017. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Ông Bùi Quang H không tham gia tố tụng nên không có ý kiến về vấn đề này. Xét yêu cầu này của bà T thì thấy các con hiện đang sống chung với mẹ và các cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Do vậy, cần giao 02 con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với tình hình hiện tại và không làm xáo trộn cuộc sống của các cháu.
[5] Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn yêu cầu Ông Bùi Quang H cấp dưỡng nuôi con chung 1.500.000 đồng / 1 tháng. Nhưng tại phiên tòa hôm nay, bà T không yêu cầu Ông H cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của bà T nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6] Về quan hệ tài sản chung: Bà Nguyễn Thị Thùy T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[7] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nguyên đơn phải chịu theo luật định.
[8] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp và đúng quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 63, 147, 227, 228, 235, 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" của bà Nguyễn Thị Thùy T đối với Ông Bùi Quang H.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thùy T được ly hôn với Ông Bùi Quang H.
(Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 43, quyển số 01/2005, ngày 03 tháng 6 năm 2005 của UBND phường Tân C, quận Thanh K, thành phố Đà Nẵng.)
2. Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Thị Thùy T và Ông Bùi Quang H có 02 con chung tên Bùi Quang H1, sinh ngày 12-01-2005 và Bùi Nhã A, sinh ngày 08- 8-2017.
Giao 02 con chung tên Bùi Quang H1, sinh ngày 12-01-2005 và Bùi Nhã A, sinh ngày 08-8-2017 cho bà Nguyễn Thị Thùy T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Ông Bùi Quang H không cấp dưỡng nuôi con.
Bên không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Thùy T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0004097 ngày 20-8-2018.
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 78/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 78/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về