Bản án 75/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 75/2019/HS-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 82/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Văn C, tên gọi khác: Không; sinh năm: 1958 tại Hưng Yên; Nơi cư trú: Đội 14, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 7/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Đ (đã chết) và bà Trần Thị Tr (đã chết), có vợ là Đào Thị B và 02 con. Tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: Trước khi bị bắt chưa vi phạm pháp luật gì, bị cáo có bố đẻ là liệt sỹ, bị cáo bị u gan được bệnh viện chẩn đoán là ung thư. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/4/2019, đến ngày 04/4/2019 thì được hủy bỏ tạm giữ và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đào Thị B, sinh năm 1969 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Đội 14, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

2. Chị Trần Thị H, sinh năm 1993 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Đội 14, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 10 giờ, ngày 02/4/2019, tại khu vực Bản Mới, xã Thanh An, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, Trần Văn C bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với công an xã Thanh An bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã thu giữ tại túi quần bên phải C đang mặc 01 gói Heroine có khối lượng là 1,78 gam. Nguồn gốc số ma túy trên là do trước đó, vào khoảng 09 h cùng ngày, C đi xe mô tô Biển kiểm soát 29L1-327.90 từ nhà ra khu vực Bản Mới, xã Thanh An, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên gặp và mua của một người đàn ông khoảng 18 tuổi, C không rõ tên, địa chỉ với giá 1.000.000 đ. Sau khi mua, C cất giấu số ma túy trên vào trong túi quần bên phải đang mặc và đi được một đoạn thì bị bắt. Mục đích C tàng trữ trái phép chất ma túy là để thỏa mãn nhu cầu sử dụng của cá nhân, nhằm giảm triệu chứng đau do u gan của bị cáo gây ra. Khi bị cáo mua, cất giấu ma túy thì không ai khác được biết. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo. Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29L1-327.90 là của chị Trần Thị H cho bà Đào Thị B (vợ của bị cáo) mượn, C tự ý lấy đi mà bà B, chị H không biết.

Bản cáo trạng số: 81/CT-VKSĐB ngày 14/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51, khoản 1,2 điều 65 Bộ luật hình sự, khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự xử phạt bị cáo với mức hình phạt từ 24 tháng đến 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng, giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Th, giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 1,69 gam Heroine là số ma túy còn lại sau khi đã trích mẫu giám định; Áp dụng điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận điều tra của cơ quan điều tra; quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là sai xin Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi phạm tội của bị cáo:

Ngày 02/4/2019 Trần Văn C đã có hành vi mua, cất giữ trái phép 1,78 gam Heroine để sử dụng. Hành vi tàng trữ nêu trên của bị cáo đã phạm vào điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo đã thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp.

Hành vi trên của bị cáo đã được chứng minh tại các biên bản: Bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ đồ vật tài liệu, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án, tại kết luận giám định, các lời khai của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

Như vậy Hội đồng xét xử thấy đủ căn cứ xác định bị cáo Trần Văn C có tội, bị cáo đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi trên của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội có tính chất nghiêm trọng, bởi nó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm ảnh hưởng đến trật tự, trị an và an toàn xã hội trên địa bàn. Hành vi phạm tội của bị cáo là đơn lẻ, không có tổ chức, không có đồng phạm, xuất phát từ động cơ, mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của cá nhân trong việc giảm đau do bệnh;

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là con của liệt sỹ, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại các điểm s, x khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị cáo; Nhằm thể hiện tính nghiêm minh, nghiêm khắc và răn đe của pháp luật với tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Hiện bị cáo có sức khỏe yếu, đã hết tuổi lao động lại đang bị bệnh gan được Bệnh viện tỉnh Điện Biên chẩn đoán là ung thư cần chuyển tuyến điều trị. Quá trình bị cáo sinh sống trước khi bị bắt không có vi phạm và bị xử lý gì, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng quy định tại khoản 1, 2 điều 65 Bộ Luật hình sự xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo là đủ sức răn đe và cải tạo đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy việc đại diện Viện kiểm sát nhân dân đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo là hợp lý cần chấp nhận, về mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề xuất thì có phần hơi nặng cho nên Hội đồng xét xử đã cân nhắc quyết định mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo.

[3] Về vật chứng vụ án:

Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng các quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy 1,69 gam Heroine vật chứng còn lại của vụ án là vật cấm tàng trữ, lưu hành.

Chiếc xe mô tô Biển kiểm soát 29L1-327.90 là của chị Trần Thị H cho bà Đào Thị B (vợ của bị cáo) mượn, C tự ý lấy đi mà chị H và bà B không biết. Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe mô tô trên cho chị Trần Thị H đúng theo quy định của pháp luật nên cần căn cứ khoản 2 điều 47 bộ luật hình sự, điểm b khoản 3 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận việc xử lý vật chứng này.

[4] Trần Văn C khai mua ma túy của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có đủ cơ sở đề điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập việc xử lý đối với người này.

Bà Đào Thị B không biết việc bị cáo lấy xe máy đi mua ma túy nên không đề cập xử lý.

[5] Về hình phạt Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là đối tượng có thu nhập từ nghề làm ruộng thấp, hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, bị cáo hiện đang bị bệnh nặng thường xuyên đau yếu phải điều trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về án phí: Hội đồng xét xử thấy ràng cần căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện Điện Biên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng này đều đảm bảo tính hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn c phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, x khoản 1 Điều 51, khoản 1, 2 điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn C 22 (Hai mươi hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời gian thử thách là 44 (Bốn mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án 21/6/2019.

Giao bị cáo Trần Văn C cho UBND xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 1,69 gam Heroine.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/5/2019 giữa Công an huyện Điện Biên và Chỉ cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

Áp dụng khoản 2 điều 47 bộ luật hình sự, điểm b khoản 3 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận việc trả lại chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29L1-327.90 cho chị Trần Thị H của cơ quan điều tra công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

4. Về án phí:

Áp dụng điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Văn C phải chịu 200.000 đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/6/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 75/2019/HS-ST ngày 21/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:75/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về