Bản án 74/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Lưu Văn N, sinh ngày 10 tháng 02 năm 1978 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn N, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 2/10; dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Văn Nh và bà Nguyễn Thị C; có vợ là Lê Thị Kim P và 01 con. Tiền án, tiền sự, nhân thân: Bản án số 49/2009/HSST ngày 15/4/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt Lưu Văn N 11 tháng tù về tội Mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước (đã được xóa án tích). Bị cáo bị tạm giữ ngày 12/4/2021; chuyển tạm giam ngày 15/4/2021, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lưu Văn N: Bà Dương Thanh Huyền - Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng, có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Hữu T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 12/4/2021, tại khu vực thôn 5, xã Bắc Sơn, An Dương, Hải Phòng, Công an xã Bắc Sơn phát hiện Lưu Văn N có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ tại túi áo phía trước của N 01 gói giấy bên trong chứa chất bột màu trắng, trên tay phải của N 01 ống tiêm (xilanh) bằng nhựa, phần đầu xi lanh chứa chất bột màu trắng theo N khai là ma túy mua để sử dụng và 01 xe mô tô biển kiểm soát 16F8-0648. Công an xã Bắc Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng ma túy và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương.

Kết luận giám định số 256/KLGĐ-MT ngày 14/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng: Chất bột bên trong ống tiêm (xi lanh) gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,04gam, là loại Heroin. Chất bột bên trong gói giấy gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,08gam, là loại Heroin.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lưu Văn N không thu giữ được tài liệu, đồ vật có liên quan.

Tại cơ quan điều tra, Lưu Văn N khai nhận: Chiều ngày 12/4/2021, N điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 16F8-0648 đến khu vực cầu Tam Bạc thuộc quận Lê Chân, Hải Phòng mua 01 gói ma túy loại heroin với giá 100.000đồng của một người đàn ông không quan biết với mục đích để sử dụng cho bản thân. N cất gói giấy chứa ma túy vào trong túi áo ngực bên trái rồi điều khiển xe đi về nhà. Khi đi đến khu vực thôn 5, xã Bắc Sơn, huyện An Dương, Hải Phòng thấy vắng người qua lại nên N dừng xe ở rìa tường bao Công ty Cổ phần thương mại Minh Tân, lấy trong cốp xe 01 ống tiêm (xi lanh) và 01 ống thủy tinh đựng nước cất. N lấy một ít ma túy vừa mua được cho vào ống tiêm, số ma túy còn lại vẫn gói trong giấy để ở túi áo ngực. Khi N chuẩn bị chích ma túy, thì lực lượng Công an xã Bắc Sơn phát hiện, N làm rơi ống nước cất xuống đất vỡ. Công an xã Bắc Sơn đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nhân và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 10 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Lưu Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lưu Văn N khai nhận như nội dung cáo trạng đã nêu. Công bố lời khai của người chứng kiến có nội dung như bị cáo khai nhận tại phiên tòa.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lưu Văn N từ 24 đến 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định và 01 ống tiêm (xi lanh) được niêm phong trong 01 phong bì thư dán kín Người bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bào chữa đối với bị cáo: Không tranh luận về tội danh và khung hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn, bị cáo chỉ sử dụng ma túy cho bản thân và cũng đã nhận thức được hành vi phạm tội của bản thân, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ hơn với đề xuất của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Khi nói lời nói sau cùng, bị cáo Lưu Văn N đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

[2] Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện An Dương lập hồi 16 giờ 50 phút ngày 12 tháng 4 năm 2021, phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định số 256/KLGĐ-MT ngày 14 tháng 4 năm 2021 và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Lưu Văn N đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổng khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ là 0,12 gam ma túy loại Heroin nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm họa đối với mọi gia đình và xã hội. Nhân thân bị cáo đã có 01 tiền án, tuy đã được xóa án song bị coi là có nhân thân xấu. Bản thân bị cáo đã có thời gian mắc nghiện kéo dài. Do vậy hành vi phạm tội này của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Gia đình bị cáo tuy thuộc hộ cận nghèo nhưng đây không được xem xét là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo nên quan điểm của người bào chữa đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự vì gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo là không có căn cứ chấp nhận.

- Về các vấn đề khác:

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, gia đình thuộc hộ cận nghèo nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định; toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định và 01 ống tiêm (xi lanh) là vật chứng của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Đối với xe mô tô BKS 16F8-0648 qua xác minh là tài sản của chị Lê Thị Kim P, vợ của bị cáo Lưu Văn N. Chị P không biết việc Nhân sử dụng xe máy để đi mua ma túy nên Cơ quan đã trả lại cho chị P quản lý, sử dụng.

[9]Đối với người đàn ông bán ma túy cho Lưu Văn N, tài liệu điều tra không xác định được lai lịch nên không có căn cứ xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Lưu Văn N 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12 tháng 4 năm 2021.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ giấy gói mẫu vật gửi giám định; 01 ống tiêm (xi lanh) được niêm phong lại trong phong bì có dấu niêm phong số 256MT/PC09;

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13 tháng 9 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện An Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về