Bản án 280/HSST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 280/HSST NGÀY 24/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24/9/2020,tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng,thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 301/2020/HSST ngày 09/09/2020,theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 324/QĐXX -ST ngày 09/09/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên:Nguyễn Duy T- Sinh năm 1974;Giới tính:Nam; HKTT và nơi ở:P206 Q40 phường T, quận H, thành phố H;Nghề nghiệp: Tự do;Trình độ văn hóa: 07/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Duy T ( đã chết);Họ tên mẹ:Nguyễn Thị T. Vợ:Vũ Thị Thanh H, có 1 con chung sinh 1998. Tiền án tiền sự:02 tiền án, 01 tiền sự.

Tiền án:

- Ngày 09/06/1998, Tòa án nhân dân quận Ba Đình, TP Hà Nội xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản công dân (đã xóa án tích ).

- Ngày 13/04/1999, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, TP Hà Nội xử phạt 10 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản công dân và phải chấp hành 06 tháng tù cho hưởng án treo của Bản án số 148 ngày 09/06/1998 của TAND quận Ba Đình ( đã xóa án tích ). Tiền sự:

- Năm 2006, Công an quận Thanh Xuân xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản ( đã hết thời hiệu ).

Bắt quả tang ngày 08/6/2020,hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ công an quận Hai Bà Trưng ,Hà Nội.Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 50 phút, ngày 08/06/2020, Tổ công tác Công an phường Đ phối hợp với Tổ công tác Đại đội 2 –Trung đoàn cảnh sát cơ động – Công an thành phố H làm nhiệm vụ tại trước nhà số 52 phố T, phường Đ, quận H, thành phố H phát hiện Nguyễn Duy T điều khiển xe máy Yamaha Jupiter BKS 29P4 – 3902 chở Chu Minh B (sinh năm 1985, HKTT số 84 tổ 7 phườngP, thành phố H, tỉnh H ) có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, T tự giác giao nộp từ trong túi quần phía trước bên phải T đang mặc ra 02 túi nilong màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng, tại chỗ T khai nhận là ma túy heroin mua về để sử dụng. Tổ công tác đã niêm phong tang vật và đưa T, Bảo về trụ sở công an phường Đ để giải quyết.Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn tạm giữ của Tsố tiền 200.000 đồngvà 01 xe máy Yamaha Jupiter BKS 29P4 – 3902.

Tại bản kết luận giám định số 4596/KLGD – PC09 ngày 15/06/2020, phòng KTHS- CATP H kết luận : “ ... các cục chất bột màu trắng bên trong 2 túi nilong đều là ma túy heroin, tổng khối lượng 4,457 gam”.

Tại cơ quan điều tra,Nguyễn Duy T khai nhận: Khoảng 21 giờ ngày 06/08/2020,T thuê anh Chu Minh B làm nghề lái xe ôm chở T từ ngõ 19 đường K, quận H, thành phố H đến khu vực phốL, đường T gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy heroin với giá 1.000.000 đồng.T cất gói ma túy vào túi quần phía trước bên phải và đi ra chỗ anh B đang đứng đợi. Do anh Bkhông biết đường nên T và B thỏa thuận để T điều khiển xe máy chở B ngồi sau khi đi đến trước cửa số nhà 52 phố T, quận H,thành phố H thì bị Cơ quan công an kiểm tra thu giữ như trên.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T tại phố L, đường T do không xác định được nên Cơ quan công an không có cơ sở để xử lý.

Đối với anh Chu Minh B,làm nghề lái xe ôm, do anhB không biết việc T tàng trữ trái phép chất ma túy và không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của T nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter mang BKS 29P4 – 3902. Qua quá trình tra cứu có SK: 003730, SM: 03730 là số nguyên thủy. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là anh Chu Minh B nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định trao trả chiếc xe máy trên cho anh B.

Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của T là số tiền do T lao động làm việc mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội Tại Bản cáo trạng số 292 CT/VKS-HBT ngày 08/9/2020, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Nguyễn Duy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H trong phần luận tội vẫn giữ nguyênquan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng số 292/CT/VKS-HBT ngày 08/9/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249,điểms khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, ngoài ra quá trình điều tra bị cáo đã cung cấp thông tin về đối tượng trốn truy nã, trên cơ sở đó cơ quan Công an xác minh nguồn tin và bắt được đối tượng truy nã, nên áp dụng thêm điểm u khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo mức án từ 36 đến 42 tháng tù giam; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 4,457 gam heroin. Số tiền 200.000 đồng thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tố tụng: Về hành vi, các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ diễn biến vụ án đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 21 giờ 50 phút ngày 08/6/2020, tại trước cửa số nhà 52 phố T,phường Đ, quận H, thành phố H,Nguyễn Duy T đã có hành vi tàng trữ trái phép 4,457 gam ma túy heroin với mục đích sử dụng thì bị tổ công tác Công an phườngĐ, quận Hphối hợp với tổ công tác Đại đội 2 - Trung đoàn cơ động CATP H làm nhiệm vụ kiểm tra hành chính bắt quả tang cùng vật chứng.Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy ” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ Luật hình sự.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương,vì vậy đối với bị cáo cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để răn đe giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Về nhân thân bị cáo đã có 02 tiền án,tuy đã được xóa án tích nhưng cũng thể hiện bị cáo đã được cải tạo giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục vi phạm pháp luật, HĐXX cũng xét trong quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện khai báo đối tượng đang trốn truy nã của Công an Thành phốR, trên cơ sở đó cơ quan công an đã bắt được đối tượng truy nãtại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s,u khoản 1điều 51 Bộ luật hình sự.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy4,457 gam heroin, trả lại cho bị cáosố tiền 200.000 đồng. Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận H,thành phố H quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng và Giấy nộp tiền vào tài khoản cùng lập ngày 08/9/2020.

[4] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định điều 136 Bộ luật TTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

-Áp dụngđiểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s,u khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ Luật tố tụng hình sự;Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Xử phạt:Nguyn Duy T 35 ( ba lăm) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/6/2020.

2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy niêm phong, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và Nguyễn Duy T, bên trong có 4,458 gamma túy heroin; Trả lại cho bị cáo 200.000 đồng.Các vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận H, thành phố H quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng và Giấy nộp tiền vào tài khoản cùng ngày 08 tháng 9 năm 2020.

3/ Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáoNguyễn Duy Tphải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 280/HSST ngày 24/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:280/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về