Bản án 74/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 26/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2019/TLHS-HS ngày 07 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo:

Trần Văn T, sinh năm 1976 tại Hà Nam; Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Thôn N1, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; T độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N (đã chết) và bà Đặng Thị V (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị M, có 02 con lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 14/02/2008 Công an huyện B, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000đ về hành vi “Đánh bạc”; ngày 03/9/2015 Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Hà Nam xử phạt 15 tháng tù về tội “Đánh bạc”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/4/2019 và chuyển tạm giam từ ngày 25/4/20198 đến nay; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm1978. Trú tại: Thôn N 1, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Nam; có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

1. Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1959. Trú tại: Thôn A, xã Tr, thành phố P, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

2. Mai Đình Nh, sinh năm 1967. Trú tại: Thôn A, xã Tr, thành phố P, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 19/4/2019 Tổ công tác của Đội xây dựng phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam làm nhiệm vụ tại khu vực thôn Đôn, xã Trịnh Xá, thành phố Phủ Lý phát hiện 01 người đàn ông khoảng 40 tuổi đi xe máy không đội mũ bảo hiểm có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm về ma túy nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Tại chỗ ngày đàn ông này khai tên là Trần Văn T, sinh năm 1976 trú tại: Thôn N 1, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Nam và tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 gói giấy màu trắng có chữ màu xanh, mở ra kiểm tra bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục. T khai nhận đó là ma túy cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng Công an đã đưa lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn T.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy màu trắng có chữ màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát 90B2-432.44; 01 ví giả da màu nâu đã cũ bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân, 01 đăng ký xe mô tô đều mang tên Trần Văn T; 02 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

Ngày 20/4/2019 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý ra lệnh khám xét khẩn cấp đối với nơi ở, đồ vật, tài sản của Trần Văn T tại Thôn N 1, xã Đ, huyện B, tỉnh Hà Nam. Quá T khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan.

Tại bản kết luận giám định số 85/PC09-MT ngày 22/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,204 gam (không phảy hai trăm linh bốn gam), loại Heroine”. (Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT09, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Ngày 07/5/2019 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý ra yêu cầu định giá tài sản số 58 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý định giá 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 90B2-432.44 đã thu giữ của Trần Văn T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 40/2019 ngày 10/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Phủ Lý kết luận: “01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu sơn vàng, đen, bạc biển kiểm soát 90B2-432.44, xe đã qua sử dụng giá còn 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng)”.

Tại bản cáo trạng số 80/CT-VKS-TP ngày 05/6/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là BLHS).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng, không phạt tiền bổ sung bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị M trình bày: chị là vợ của bị cáo Trần Văn T, chiếc xe máy Honda Wave biển kiểm soát 90B2-432.44 là tài sản chung của vợ chồng chị. Chị không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe để đi thực hiện hành vi phạm tội. Nay chị xin nhận lại chiếc xe để làm phương tiện đi lại.

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây gọi tắt là HĐXX) xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá T điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Việc xét xử vắng mặt đối với những người làm chứng tại phiên tòa: trong hồ sơ đã thu thập đầy đủ lời khai của những người làm chứng vắng mặt theo đúng trình tự luật định. Do đó việc xét xử vắng mặt những người làm chứng đảm bảo đúng quy định.

[2] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra HĐXX thấy phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 19/4/2019 tại khu vực thôn Đôn, xã Trịnh Xá, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Trần Văn T cất giấu trái phép 0,204 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang. ((Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT09, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ).

Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp hơn trên địa bàn thành phố Phủ Lý

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt hành chính và xử phạt tù về hành vi “đánh bạc”, mặc dù đã được xóa tiền án, tiền sự nhưng tiếp tục phạm tội với tính chất mực đồ nguy hiểm hơn cũng thể hiện bị cáo coi thường pháp luật, khó cải tạo bản thân.

Khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá T điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi phạm tội đủ để cải tạo chính bị cáo và phòng ngừa chung trong cộng đồng. Xét mục đích phạm tội không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng: đối với toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 ví giả da màu nâu, 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 đăng ký xe mang tên Trần Văn T, 02 điện thoại di động là tài sản riêng của Trần Văn T không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho bị cáo. Đối với 01 chiếc xe máy Honda Wave biển kiểm soát 90B2-432.44 là tài sản chung của bị cáo Trần Văn T và chị Nguyễn Thị M cần tịch thu 1/2 giá trị xe để sung ngân sách nhà nước, trả lại chị M 1/2 giá trị chiếc xe trên (theo giá trị tại thời điểm thi hành án).

[5] Các tình tiết khác của vụ án: Đối với người thanh niên bị cáo khai tên T1 đã giao ma túy cho bị cáo. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Công an xã Đồn Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam xác minh nhưng không xác định được nhân thân lai lịch. Ngoài lời khai của T không còn tài liệu chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 BLHS.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí ngày 25 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 30 (ba mƣơi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19 tháng 4 năm 2019

2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước có ghi mẫu vật hoàn trả QT01, số 85/PC09-MT. Trả lại bị cáo 01 ví giả da màu nâu, 02 điện thoại di động Nokia, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô đều mang tên Trần Văn T.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 1/2 giá trị chiếc xe máy biển kiểm soát 90B2-432.44, trả lại chị Nguyễn Thị M 1/2 giá trị xe theo giá trị tại thời điểm thi hành án (thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền).

Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 06/6/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

4/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành bản án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 26/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về