Bản án 74/2019/HS-ST ngày 22/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 74/2019/HS-ST NGÀY 22/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 75/2019/HSST ngày 28/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 775/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân T, sinh năm 1985 tại tỉnh Khánh Hòa; nơi thường trú: thôn Tân Xương 1, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị T; có vợ Lê Thị Thanh T và 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giam từ ngày 20/8/2018. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Đỗ Ngọc Oánh thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Xuân T. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 50 ngày 20/8/2018, tại khu vực đường Nguyễn Thị Thập, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên phối hợp với Công an Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành bắt giữ Nguyễn Xuân T theo quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên, sau đó đưa T về trụ sở Công an phường Tân Phú để làm việc. Qua kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong vali của T có 08 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 101,6708 gam loại Methamphetamine; 37 viên nén màu hồng và 40 viên nén màu xám, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 34,955 gam, loại MDMA nên đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Số ma túy thu giữ của Tân được giám định theo kết luận giám định số 1422/KLGD-H ngày 27/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra, T khai nhận: bản thân nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và có ma túy sử dụng, từ tháng 02/2018 Tân đã nhiều lần mua ma túy của những người (không rõ lai lịch) tại thành phố Nha Trang để sử dụng. Ngày 16/8/2018, T điều khiển xe mô tô biển số 59K-071.16 đi từ thành phố Nha Trang đến khu vực Quốc Lộ 1A, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai tìm gặp một thanh niên tên Minh (không rõ lai lịch) để mua 08 gói ma túy đá và 37 viên ma túy tổng hợp, loại MDMA với giá 60.000.000 đồng để sử dụng. Đến ngày 20/8/2018, khi T mang số ma túy trên đến đường Nguyễn Thị Thập, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng và tìm bạn gái (không rõ lai lịch) thì bị phát hiện bắt giữ. Trước đó, ngày 08/6/2018 Tân bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên khởi tố, điều tra về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 11/6/2018 Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên ra Quyết định truy nã nhưng Tân không biết việc mình bị khởi tố và truy nã như trên. Sau khi T bị bắt, vụ án đã được phục hồi điều tra để xử lý theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 45/CTr-VKS-P1 ngày 23/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Xuân T khai nhận: về nội dung sự việc, diễn biến các hành vi như nội dung cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Xuân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T từ 16 đến 18 năm tù; buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đến 15.000.000 đồng để sung vào ngân sách nhà nước. Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng, tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động thu giữ của bị cáo là phương tiện bị cáo liên lạc để mua ma túy, trả lại cho bị cáo 4.000.000 đồng nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có 01 con nhỏ, cha già, mẹ đã chết, vợ bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, bà nội bị cáo là Mẹ Việt Nam anh hùng và bản thân bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự; số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra xã hội. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn mức mà Viện kiểm sát đề nghị và không đề nghị phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Xuân T thống nhất với lời bào chữa của vị luật sư, không tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

Đối đáp lại quan điểm của luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng luật sư thống nhất về tội danh và điều luật truy tố, chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân T không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Luật sư bào chữa cho bị cáo không có ý kiến về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Xuân T đã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trên.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, vật chứng thu giữ, kết luận giám định… nên đã có đủ cơ sở xác định: do nghiện ma túy nên ngày 16/8/2018, Nguyễn Xuân T đã điều khiển xe mô tô biển số 59K-071.16 đi từ thành phố Nha Trang đến khu vực Quốc Lộ 1A, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai gặp một thanh niên tên Minh (không rõ lai lịch) để mua 08 gói nylon chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 101,6708 gam loại Methamphetamine; 37 viên nén màu hồng và 40 viên nén màu xám, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 34,955 gam, loại MDMA với giá 60.000.000 đồng đem về cất giấu trong vali để sử dụng (theo kết luận giám định số 1422/KLGD-H ngày 27/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh). Ngày 20/8/2018, khi bị cáo mang số ma túy này đến đường Nguyễn Thị Thập, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để sử dụng và tìm bạn gái (không rõ lai lịch) thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Với các hành vi như trên, xét đã có cơ sở để tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng đã truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Ngoài lần phạm tội này, trước đó, ngày 08/6/2018 bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên khởi tố, điều tra về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và ra Quyết định truy nã, mặc dù hành vi này chưa bị xét xử, nhưng với việc bị cáo tiếp tục phạm tội đã thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật, khó giáo dục cải tạo. Do vậy, cần thiết phải áp dụng tội danh và hình phạt của điều luật truy tố quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Đồng thời cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 buộc bị cáo phải nộp phạt bổ sung một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đại diện viện kiểm sát và các luật sư bào chữa cho bị cáo đã đề cập như: bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có 01 con nhỏ, cha già, mẹ đã chết, vợ bị cáo không có công ăn việc làm ổn định; toàn bộ số ma túy đã bị thu giữ chưa phát tán ra ngoài xã hội; lần phạm tội này được xem là chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo có bà nội là bà Nguyễn Thị Mười được Chủ tịch nước tặng Huân Chương kháng chiến hạng 3 là người có công với đất nước nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

Về hành vi mua bán trái phép ma túy của bị cáo Nguyễn Xuân T thực hiện tại tỉnh Phú Yên, hiện đang được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên khởi tố, điều tra theo thẩm quyền nên không xem xét trong vụ án này.

Đối với đối tượng tên Minh đã bán ma túy cho bị cáo, nhưng bị cáo khai không rõ lai lịch, địa chỉ của Minh nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, truy bắt để xử lý.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các gói ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và các vật chứng gồm: 04 ống thủy tinh, 01 vali, biển xe giả số 59K1-071.16 là những vật dụng không còn giá trị sử dụng nên áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 điện thoại di động Nokia và Iphone bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với số tiền 4.000.000 đồng thu giữ của bị cáo không phải là tài sản do phạm tội mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu SH màu trắng biển số 59K1-071.16, số khung ZDCKF08A07F170780, số máy KF08E-0104377-KTGE1 thu giữ của bị cáo, qua xác minh xác định xe có biển số thật là 52S5-7442 do Đặng Thị Minh Hoàng đứng tên sở hữu đã bị mất trộm ngày 25/02/2018 tại địa bàn quận Bình Thạnh, cơ quan điều tra đã chuyển giao chiếc xe trên cho Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh để xử lý theo quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Nguyễn Xuân T 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/8/2018.

Buộc bị cáo phải nộp 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong ghi vụ số 1422/18 bên ngoài có chữ ký của giám định viên, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 04 ống thủy tinh, 01 vali, 01 biển số xe 59K1-071.16.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 02 điện thoại di động hiệu Nokia và Iphone (Iphone không mở được khay sim model A1661 màu đỏ, tất cả điện thoại đều đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng bên trong máy).

- Trả lại cho Nguyễn Xuân T: số tiền 4.000.000 (bốn triệu) đồng nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận tang tài vật số 130/19 ngày 02/01/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh và Giấy nộp tiền vào tài khoản của Cơ quan CSĐT Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngày 12/11/2018).

Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 74/2019/HS-ST ngày 22/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:74/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về