Bản án 73/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 73/2019/HS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN TẤN NGUYÊN C, sinh năm 1997, nơi sinh: Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn 5, xã ĐN, huyện MĐ, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn Đ và bà Võ Thị Y; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; về nhân thân: Ngày 21/12/2013 bị cáo C thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản, ngày 27/6/2014, Nguyễn Tấn Nguyên C bị Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức xử phạt 09 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” đã chấp hành xong bán án và đã xóa án tích; bị bắt tạm giam từ ngày 05/7/2019, hiện đang giam có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1/ Ông Lê Văn L, sinh năm 1966, địa chỉ: Tổ 15, phường NL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

2/ Ông Bùi Văn N, sinh năm 1982, địa chỉ: Tổ 11, phường NL, thành phố QN, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3/ Ông Võ Ngọc V, sinh năm 1991, địa chỉ: Thôn 6, xã ĐC, huyện MĐ, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ 30 phút ngày 02/6/2019, Nguyễn Tấn Nguyên C đang ở nhà của mình thì nhận được cuộc gọi của đối tượng Chí (không xác định nhân thân lai lịch – là người mới quen biết đã nhiều lần sử dụng ma túy với C) điện thoại vào số 0979.849.550 cho C và rủ ra thành phố Quảng Ngãi để mua ma túy sử dụng và C đồng ý. Vì C không có xe nên nhờ Võ Ngọc V – là bạn bè mới quen biết chở giúp mình ra thành phố Quảng Ngãi có công việc nhưng không nói rõ mục đích ra thành phố Quảng Ngãi; V đồng ý. Theo chỉ dẫn của C, V chở C đến nhà nghỉ Tuyết Mai Loan 1 trên đường Nguyễn Trãi, thuộc tổ 11, phường Nghĩa Lộ, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Đến nơi, C nói V đứng ngoài chờ, còn C đi vào gặp Chí và Chí đưa C số tiền 800.000 đồng để mua ma túy về cùng sử dụng. Sau khi nhận tiền, C tiếp tục chỉ đường cho V chở đến một ngôi nhà trong hẻm đường Quang Trung (không xác định được địa chỉ). Đến nơi, C nói V đứng đợi ở ngoài, C đi vào một ngôi nhà có cổng màu xanh bỏ 800.000 đồng vào trong cửa sổ, sau đó có người đưa ra 02 túi ma túy đá rồi C lấy ma túy bỏ vào túi quần. Sau đó, C nhờ V chở quay lại nhà nghỉ Tuyết Mai Loan 1 để giao ma túy cho Chí nhưng chưa kịp giao thì bị Công an tỉnh Quảng Ngãi bắt quả tang. Tang vật thu gồm: 02 túi nylon được hàn kín, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng (mà Nguyễn Tấn Nguyên C khai nhận là ma túy tổng hợp dạng đá), và một số tang vật có liên quan.

Ngày 02/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi ra quyết định trưng cầu giám định số: 44/CQCSĐT Trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi giám định chất ma túy. Ngày 04/6/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi có kết luận số: 515/KLGĐ-PC09 kết luận như sau: Chất rắn dạng hạt tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nylon màu trắng được hàn kín gửi giám định là ma túy, loại ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,57 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Ngày 10/6/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi để xử lý theo thẩm quyền.

Bản cáo trạng số: 72/CT-VKS ngày 26/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố Nguyễn Tấn Nguyên C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt: Nguyễn Tấn Nguyên C từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Và đề nghị xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Người làm chứng ông Lê Văn L, ông Bùi Văn N, ông Võ Ngọc V đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng họ đã có lời khai trong quá trình điều tra nên việc vắng mặt của những người này không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Tấn Nguyên C khai nhận hành vi phạm tội của mình: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 02/6/2019 Nguyễn Tấn Nguyên C đến nhà đường Quang Trung, thành phố Quảng Ngãi để mua ma túy về cho Chí (không rõ nhân thân lai lịch) về để sử dụng chung. Khi C mua được 02 túi ny lông ma túy đá và đang cất giấu ma túy trong người thì bị bắt quả tang, khối lượng ma túy khi bị bắt quả tang là 0,57 gam Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo C tại các biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định số: 515/KLGĐ-PC09 ngày 04/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ngãi.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Hành vi của bị cáo Nguyễn Tấn Nguyên C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy đinh tại điểm c (Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam) khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo C là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được việc tàng trữ ma túy với mục đích sử dụng là vi phạm pháp luật, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, không chỉ xâm đến chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của con người, gây nhiễm bệnh dịch và là nguyên nhân để gây ra các loại tội phạm khác. Ngày 21/12/2013 bị cáo C thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản, ngày 27/6/2014, Nguyễn Tấn Nguyên C bị Tòa án nhân dân huyện Mộ Đức xử phạt 09 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” đã chấp hành xong bán án và đã xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần phải xử lý nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo C thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo C.

[3] Tình tiết liên quan đến vụ án:

Đi với tên “Chí” mà bị cáo Nguyễn Tấn Nguyên C khai nhận đã đưa cho mình số tiền 800.000 đồng để mua 02 túi ma túy đá nhằm mục đích cùng sử dụng vào ngày 02/6/2019. Do bị cáo C không cung cấp được nhân thân lai lịch của “Chí”, đồng thời bị cáo C không nhớ số điện thoại của “Chí” nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra, xác minh và đề nghị xử lý sau.

Đi với người ở ngôi nhà trong hẻm đường Quang Trung đã nhiều lần bán ma túy đá cho bị cáo C sử dụng nhưng bị cáo C không biết là ai vì không gặp trực tiếp người bán; không xác định được địa chỉ và không nhớ đường đi đến ngôi nhà này nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ sau.

Đi với ông Võ Ngọc V đã chở bị cáo Nguyễn Tấn Nguyên C đến thành phố Quảng Ngãi, vì lý do quen biết, nên đồng ý chở bị cáo C đi, tuy nhiên do bị cáo C không nói rõ mục đích ra thành phố Quảng Ngãi để làm gì, đồng thời V không biết việc bị cáo C mua ma túy và cất giấu trong người, nên Cơ quan điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với V là có căn cứ.

[4] Về xử lý vật chứng: 02 túi nylon được hàn kín, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng tuyên tịch thu, tiêu hủy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu đen mà bị cáo C dùng vào việc phạm tội nên tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[5] Qúa trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Về án phí trong vụ án hình sự: Bị cáo C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[7] Tuyên quyền kháng cáo cho người tham gia tố tụng.

[8] Với những nhận định trên là phù hợp với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn Nguyên C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Tấn Nguyên C 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/7/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì thư bên trong có chứa 02 (hai) túi nylon được hàn kín, bên trong chứa nhiều hạt tinh thể màu trắng (đã được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT màu đen (đã qua sử dụng và được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi).

(Vật chứng có đặc điểm tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/10/2019 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi).

3. Về án phí trong vụ án hình sự: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn Tấn Nguyên C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 Bộ luật tố Tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về