Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 73/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 53/2019/TLST - HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn G, sinh năm 1949; cư trú tại: Ấp TP, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1954; cư trú tại: Ấp TP, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ông Trần Văn G trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Nguyễn Thị T chung sống năm 1979, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn nhưng do cháy nhà đã thất lạc. Quá trình chung sống, vợ chồng bất đồng quan điểm nên đã ly thân từ năm 1985 đến. Nay ông xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với bà T nên yêu cầu được ly hôn.

- Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Trần Thị M, sinh năm 1979 và Trần Văn T1, sinh năm 1982. Hiện nay các con chung đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung:  Năm 1975 trước khi cưới bà T thì bà ngoại ông là bà Hồ Thị B có cho ông 20 công đất tầm lớn tại ấp TP, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau.  Sau nhiều lần chuyển nhượng phần đất còn lại 5,5 công ông giao cho bà T quản lý từ năm 2007 đến nay, phần đất này là tài sản riêng của ông. Khi ly hôn, ông yêu cầu bà T trả lại cho ông hưởng toàn bộ.

Ngày 18/3/2019, ông G có đơn xin rút lại yêu cầu phần chia tài sản để các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về các vấn đề khác: Vợ chồng không có nợ người khác và không có người khác nợ lại nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian kết hôn, hôn nhân tự nguyện, việc có đăng ký kết hôn như ông G trình bày là đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông G thường xuyên đi, đi thời gian thì về giành quyền bán đất. Bà và ông G đã ly thân 16 năm nay, không còn ai quan tâm lo lắng đến ai. Tuy nhiên, nếu ông G muốn đi thì đi, muốn về thì về chứ bà không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Con chung đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Phần đất còn lại 5,5 công như ông G trình bày là đúng. Trước đây, ông G thống nhất cho bà 2,5 công, cho con trai là Trần Văn T1 2,5 công vì khi ông G bán 8 công đất T1 không đồng ý ký tên cho ông G bán đất nên ông có hứa cho T1. Nay nếu ông G yêu cầu bà trả đất thì bà đống ý trả cho ông gặp 2,5 công đất, nhưng ông G phải trả công sức của bà đóng góp trên đất 40 năm nay (mỗi tháng 1.000.000 đồng) bằng 480.000.000 đồng. Phần của T1 2,5 công bà không có ý kiến.

- Về các vấn đề khác: Vợ chồng không có nợ người khác và không có người khác nợ lại nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: Bà T đồng ý ly hôn, các nội dung khác các đương sự giữ nguyên quan điểm, không có yêu cầu khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ông Trần Văn G khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị T là vụ kiện tranh chấp ly hôn, do đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết, ông G yêu cầu bà T trả lại phần đất 5,5 công tầm lớn do bà T đang quản lý sử dụng. Tuy nhiên, bà T xác định, trong phần đất đó ông G đã cho anh Trần Văn T1 2,5 công tầm lớn. Như vậy, trong quá trình giải quyết sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của anh T1 nên Tòa án có đưa anh T1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nhưng đến ngày 18/3/2019, ông G đã rút lại yêu cầu nêu trên. Như vậy, việc giải quyết vụ án không ảnh hưởng đến quyền lợi của anh T1 nên Hội đồng xét xử không tiếp tục đưa anh T1 vào tham gia tố tụng.

 [3] Xét về quan hệ hôn nhân, Hội đồng xét xử thấy rằng: Vào năm 1979, ông G và bà T chung sống với nhau trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn. Như vậy, mối quan hệ hôn nhân giữa ông G và bà T được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay ông G yêu cầu được ly hôn, bà T đồng ý. Xét thấy: Việc thuận tình ly hôn giữa ông G và bà T là hoàn toàn tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [4] Xét về con chung: Ông G và bà T có 02 người con đã trưởng thành, không yêu cầu tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Xét về tài sản chung:  Ngày 18/3/2019, ông G có đơn xin rút lại yêu cầu phần chia tài sản để các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết với lý do ông G không có tiền dự nộp chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Xét thấy: Việc rút yêu cầu chia tài sản của ông G là hoàn toàn tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[6] Xét về các vấn đề khác: Không có.

 [7] Xét về án phí dân sự: Ông G vừa là người cao tuổi, vừa được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo nên không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình  sơ  thẩm  theo  quy  định  tại  điểm  đ  khoản  1  Điều  12  của Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 5; Điều 91; Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn G.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Trần Văn G được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

2. Về tài sản Chung: Đình chỉ yêu cầu của ông Trần Văn G đối với yêu cầu bà Nguyễn Thị T trả lại toàn bộ phần đất 5,5 công tầm lớn, tọa lạc ấp Ấp Tân Phú, xã Tân Trung, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau cho ông hưởng toàn bộ.

3. Về án phí dân sự: Ông Trần Văn G không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 73/2019/HNGĐ-ST ngày 26/04/2019 về ly hôn

Số hiệu:73/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về