Bản án 72/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 72/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 72/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Vũ Phương Đ – Sinh ngày 23 tháng 8 năm 1973 tại huyện D, tỉnh Hà Nam; Nơi cư trú: Tổ 13, phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Trọng Đ (đã chết) và con bà Lê Thị Th (đã chết); bị cáo có vợ và có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không;

- Nhân thân:

+ Bán án số 15/HSST ngày 29/4/1994 Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Tam Điệp xử phạt 42 tháng tù về tội Trộm cắp + Bán án số 18/HSST ngày 3/8/2004 Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Tam Điệp xử phạt 3 tháng tù về tội Đánh bạc + Bán án số 20/HSST ngày 29/8/2014 Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Tam Điệp xử phạt 8.000.000 đồng về tội Đánh bạc.

+ Quyết định số 838 ngày 7/9/2007 UBND thị xã Tam Điệp quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng.

+ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 124 ngày 12/9/2017 Công an thành phố Tam Điệp xử phạt 1.300.000 đồng về hành vi Đánh bạc.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 21/6/2020 đến ngày 24/6/2020 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. Hiện đang chấp hành Lệnh tạm giam số 27/2020/HSST-QĐTG ngày 14/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Thịnh Ngọc S – sinh năm 1972; địa chỉ: Tổ 20, phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; (vắng mặt).

+ Bà Đinh Thị Hải H – sinh năm 1974; địa chỉ: Tổ 13, phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; (có mặt).

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn Th - Sinh năm: 1961; (vắng mặt) Ông Đinh Văn Ng - Sinh năm: 1960; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ 45 phút ngày 21/6/2020 tổ công tác Công an phường T phối hợp với Công an phường N tiến hành tuần tra trên địa bàn hai phường, khi đi đến ngõ 1786, đường Q, thuộc tổ 19, phường N, thành phố T phát hiện một người đàn ông đang đứng trên vỉa hè bên phải đường hướng Ninh Bình – Thanh Hóa có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổcông tác đến yêu cầu kiểm tra, tại chỗ người đàn ông không xuất trình được giấy tờ tùy thân và khai tên Vũ Phương Đ, sinh năm 1973, trú tại tổ 13, phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình. Đ tự giác giao nộp bao thuốc lá Thăng Long màu vàng đang cầm trên tay phải và khai nhận trong bao thuốc lá có gói ma túy Đ mang theo để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác kiểm tra bao thuốc lá bên trong không có đồ vật gì, tại vị trí giữa vỏ túi nilon bọc ngoài bao thuốc và vỏ bao thuốc lá có 01 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong là lớp giấy màu trắng bên trong là chất bột dạng cục màu trắng. Tổ công tác gói lại như cũ đồng thời tiến hành thu giữ và niêm phong bao thuốc lá, cùng gói giấy màu vàng kể trên của Đ. Ngoài ra còn thu giữ của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 có số Imei 353309075211175 bên trong lắp sim số thuê bao 0989328562, số tiền 568.000 đồng, 01 xe mô tô BKS 29V8-1159.

Ngày 21/6/2020 vụ việc đã được chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T giải quyết.

Công an thành phố Tam Điệp đã tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Vũ Phương Đ có khối lượng 0,27 gam ký hiệu M gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 168/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận :

Mu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,2495 (không phẩy hai nghìn bốn trăm chín mươi lăm) gam là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra, bị cáo Vũ Phương Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 74/CT – VKS ngày 03 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Vũ Phương Đ ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Phương Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .

Xử phạt bị cáo Vũ Phương Đ từ 15 (Mười lăm) đến 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 21/6/2020.

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a, c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài ghi số: 168/KLGĐ-PC09-MT, mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1499 gam là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 (một) vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (6,5 x 4,5) cm; 01 mảnh giấy màu trắng kích thước (4 x 3,5) cm.

+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Trong quá trình điều tra, ông Nguyễn Văn Th trình bày: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 21/6/2020 ông đang đi trên đường Q thuộc tổ 19, phường N, thành phố T, ông nhìn thấy lực lượng Công an đang đi đến gần một người đàn ông đứng trên vỉa hè đầu ngõ 1786 đường Q, bên cạnh gần người đàn ông có 01 chiếc xe mô tô đầu xe quay hướng Thanh Hóa, đuôi xe quay hướng Ninh Bình ông đi lại gần để xem thì ông được lực lượng Công an mời làm chứng việc kiểm tra người đàn ông này, ông thấy người đàn ông này chấp hành yêu cầu kiểm tra và khai báo tên là Vũ Phương Đ, sinh năm 1973 ở tại tổ 13, phường N, thành phố T, đồng thời ông thấy Đ tự giác giao nộp bao thuốc lá Thăng Long màu vàng ở kẽ giữa vỏ túi ni lon màu trắng bọc ngoài bao thuốc và vỏ bao thuốc có một gói giấy bạc màu vàng đang cầm ở tay phải và khai nhận bên trong có một có gói ma túy Heroine Đ vừa mua để sử dụng. Lực lượng Công an đã thu giữ tiến hành kiểm tra bao thuốc lá mà Đ vừa giao nộp, bên trong không có điếu thuốc lá nào, ở vị trí kẽ giữa vỏ nilon màu trắng bọc ngoài bao thuốc lá và vỏ bao thuốc có một gói nhỏ bọc giấy bạc màu vàng, bên trong có chất dạng cục màu trắng và niêm phong, sau đó lực lượng Công an đưa Đ cùng tang vật và mời chúng tôi về Công an phường N tiếp tục làm việc.

Người làm chứng là ông Đinh Văn Ng cũng khai nhận đã được Công an mời làm chứng việc Công an tiến hành kiểm tra, thu giữ ma túy của bị cáo, sau đó lập biên bản niêm phong số ma túy đã thu giữ và đưa bị cáo về trụ sở Công an phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang với nội dung sự việc đúng như bản cáo trạng đã nêu.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng; vật chứng đã thu giữ; Kết luận giám định số: 168/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 10 giờ 45 phút ngày 21/6/2020, tại đường Q, thuộc tổ dân phố 19, phường N, thành phố T, tỉnh Ninh Bình, Vũ Phương Đ có hành vi tàng trữ trái phép 0,2495 gam ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân, bị Công an phường N và Công an phường T phát hiện, bắt quả tang đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a) ...;

c) Heroin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

Hành vi phạm tội của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nó không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của chính bản thân bị cáo mà còn ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn thành phố T, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân về tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn ma túy nói riêng. Mặt khác xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước đối với chất ma túy. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo Vũ Phương Đ có nhân thân rất xấu đã từng bị kết án về tội trộm cắp tài sản và đánh bạc.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo tàng trữ, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng không nhằm mục đích kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Vũ Phương Đ.

[7] Về nguồn gốc ma túy, số Heroine Vũ Phương Đ khai mua của một người đàn ông không quen biết tại tổ 19 phường N, thành phố T. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ, do đó không có căn cứ để xử lý.

Đi với ông Thịnh Ngọc S là người cho Đ mượn xe mô tô biển kiểm soát 29V8-1159. Ông Sơn không biết việc Đ sử dụng xe mô tô đi mua ma túy. Do đó ông S không vi phạm pháp luật.

[8] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Đi với 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài ghi số: 168/KLGĐ-PC09-MT, mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1499 gam là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 (một) vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (6,5 x 4,5) cm; 01 mảnh giấy màu trắng kích thước (4 x 3,5) cm; 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đi với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, bên trong lắp sim số thuê bao 098932856 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bà Đinh Thị Hải H là vợ của Vũ Phương Đ. Ngày 21/6/2020 bà H cho Đ mượn để sử dụng, bản thân Đ không sử dụng liên lạc mua ma túy. Vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại cho bà Đinh Thị Hải H là đúng theo quy định của pháp luật.

Đi với số tiền 568.000 đồng quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của Vũ Phương Đ, không liên quan đến hành vi phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại cho bị cáo Đ, bị cáo đã ủy quyền cho bà Đinh Thị Hải H là vợ bị cáo nhận lại là đúng theo quy định của pháp luật.

Đi với 01 xe mô tô BKS 29V8-1159 quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Thịnh Ngọc S. Ngày 21/6/2020 ông S cho Đ mượn xe mô tô để đi lại, việc Đ sử dụng xe đi mua ma túy ông S không biết. Do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại xe mô tô cho ông S.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố:

Bị cáo Vũ Phương Đ phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Vũ Phương Đ 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 21 tháng 6 năm 2020.

2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy + 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong còn nguyên vẹn bên ngoài ghi số: 168/KLGĐ-PC09-MT, mẫu vật hoàn trả gồm: M = 0,1499 gam là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

+ 01 (một) phong bì giấy dán kín niêm phong theo đúng thủ tục pháp luật, bên ngoài ghi vật chứng còn lại: 01 (một) vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu đã dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu; 01 mảnh giấy bạc màu vàng kích thước (6,5 x 4,5) cm; 01 mảnh giấy màu trắng kích thước (4 x 3,5) cm.

+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

Nhng vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08 tháng 9 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

3/Về án phí:

Buộc bị cáo Vũ Phương Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:72/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về