Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 14/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 72/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 98/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1986; địa chỉ thường trú: Thôn 3, xã T Tr, huyện T, tỉnh Th H; địa chỉ tạm trú: Phòng trọ số 4, nhà trọ Lê Thị H – Tổ 3, khu phố Ph H, phường Th H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh M, sinh năm 1986; địa chỉ thường trú: Ấp Phú H, xã Ph V, huyện B Đ, tỉnh Bến Tre; địa chỉ tạm trú: Phòng trọ số 4, nhà trọ Lê Thị H – Tổ 3, khu phố Ph H, phường Th H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 06 tháng 3 năm 2018, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị H trình bày: Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Thanh M kết hôn trên cơ sở tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 20 tháng 7 năm 2013 tại Ủy ban nhân dân xã Ph 1 V, huyện B Đ, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới vợ chồng sinh sống và làm việc ở nhiều nơi khác nhau. Khoảng đầu năm 2017, vợ chồng chuyển đến tạm trú tại nhà trọ Lê Thị Hiền, tổ 3, khu phố Ph H, phường Th H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng sống hạnh phúc được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Nguyên nhân chủ yếu là do ông M sống không có trách nhiệm với vợ con và có lối sống không lành mạnh, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu, đá gà, đánh đề ... mọi việc lớn, nhỏ trong gia đình do một mình bà H gánh vác. Bà H đã nhiều lần khuyên bảo ông M hãy từ bỏ lối sống đó đi và sống có trách nhiệm với vợ con nhưng không có kết quả, thậm chí ông M còn dùng những lời lẽ nhục mạ bà H và gia đình bà H. Không dừng lại ở đó, ông M còn thường xuyên đánh đập bà H. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục kéo dài cuộc sống hôn nhân nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Thanh M.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Lê Phương U, sinh ngày 02/01/2014. Hiện tại cháu Uyên đang do bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên đơn bà Lê Thị H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh M đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng, niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên H giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và H giải, chuyển giao tài liệu, chứng cứ nguyên đơn khởi kiện, thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông M không đến Tòa án, cũng không nộp văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông M vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do chính đáng.

Theo biên bản xác minh ngày 21/3/2018 tại Công an phường Th H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương được cung cấp thông tin: Ông Nguyễn Thanh M, sinh năm 1986; địa chỉ thường trú: Ấp Ph H, xã Ph V, huyện B Đ, tỉnh Bến Tre có đăng ký tạm trú tại nhà trọ Lê Thị Hiền, tổ 3, khu phố Ph H, phường Th H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Theo biên bản xác minh ngày 29/6/2018 tại Ủy ban nhân dân phường Th H, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xác định địa phương không nhận được tin báo hay đơn yêu cầu giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng bà Lê Thị H và ông Nguyễn Thanh M.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên tại phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên. Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; bị đơn đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên việc Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục vắng mặt những người tham gia tố tụng là đúng qui định.

Về nội dung: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xác minh thu thập, H giải được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh luận của người tham gia tố tụng, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận, Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên: Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh M; về con chung: Giao con chung Nguyễn Lê Phương Uyên, sinh ngày 02/01/2014 cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyến nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả công bố các tài liệu chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình mà bị đơn cư trú tại thị xã Tân Uyên và nguyên đơn đề nghị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên giải quyết. Căn cứ vào các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

[2] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn bà Lê Thị H có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn ông Nguyễn Thanh M được triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Thanh M là những người đủ điều kiện kết hôn; chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu để tiến tới hôn nhân; có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph V, huyện B Đ, tỉnh Bến Tre vào ngày 20 tháng 7 năm 2013, theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đây là hôn nhân hợp pháp.

[2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Bà Lê Thị H xác định cuộc sống hôn nhân giữa bà H và ông M không còn hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Nguyên nhân chủ yếu là do ông M sống không có trách nhiệm với vợ con và có lối sống không lành mạnh, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu, đá gà, đánh đề ... mọi việc lớn, nhỏ trong gia đình do một mình bà H gánh vác. Bà H đã nhiều lần khuyên bảo ông M nhưng không có kết quả, thậm chí ông M còn dùng những lời lẽ nhục mạ bà H và gia đình bà H. Không những vậy, ông M còn thường xuyên đánh đập bà H. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2018 cho đến nay nên bà H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông M.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông M vẫn không đến Tòa án, cho thấy ông M không muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình. Về phía bà H trong quá trình tố tụng xác định hoàn toàn không còn tình cảm với ông M và không muốn tiếp tục chung sống với ông M. Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sự yêu thương, chăm sóc lẫn nhau giữa vợ và chồng nhưng quan hệ hôn nhân của bà H và ông M đã không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do đó, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà H và ông M đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà H có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông M là có cơ sở chấp nhận.

[3] Về con chung: Bà Lê Thị H yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Lê Phương Uyên, sinh ngày 02/01/2014. Xét thấy, hiện tại cháu Uyên đang do bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, hơn nữa cháu Uyên là con gái, rất cần sự chăm sóc của người mẹ. Do vậy, yêu cầu được nuôi con của bà H là có căn cứ chấp nhận quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Bà H không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, 35, 39, 92 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 17, 19, 56, 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị H về việc ly hôn với ông Nguyễn Thanh M, cụ thể như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh M.

- Về con chung: Bà Lê Thị H được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Lê Phương U, sinh ngày 02/01/2014. Ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông M phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Thanh M đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0013766, ngày 15/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị H và ông Nguyễn Thanh M vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 14/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:72/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về