TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 72/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/11/2018 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 12 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 113/2018/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018 về việc tranh chấp “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 04 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 73/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 23 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Mỹ X, sinh năm 1993
HKTT: Ấp R, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang
Địa chỉ: Đường N, khu phố C, phường R, Tp. R, tỉnh Kiên Giang.
2. Bị đơn: Anh Phạm Văn B, sinh năm 1989
Địa chỉ: Ấp R, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang
(Chị X có mặt, anh B vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Ngô Thị Mỹ X trình bày như sau:
Chị Ngô Thị Mỹ X và anh Phạm Văn B chung sống với nhau vào ngày 26/11/2015 âm lịch, vợ chồng có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán ở địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng hơn 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống khiến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cự cải bất hòa, anh chị đã cố gắn hàn để vợ chồng chung sống với nhau nhưng đến nay vợ chồng không thể dung hòa được với nhau, vì vậy vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2017 cho đến nay. Nay chị X thấy không thể tiếp tục chung sống với anh B và yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Phạm Văn B.
Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị X không yêu cầu gì thêm.
Bị đơn anh Phạm Văn B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (02 lần), nhưng anh Bkhông hợp tác và cũng không trình bày ý kiến của mình nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử vụ àn theo thủ tục chung.
Tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án gồm: Đơn khởi kiện xin ly hôn; giấy chứng nhận kết hôn; giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu; đơn xác nhận tình trạng cư trú của đương sự; biên bản ghi lời khai của đương sự; biên bản xác minh ngày 12/9/2018.
Kết quả thu thập chứng cứ: Theo các biên bản xác minh ngày 12/9/2018 làm việc với đại diện Ban lãnh đạo ấp R và người thân của anh Phạm Văn B cho thấy chị Xvà anh Bchung sống với nhau năm 2015, vợ chồng sống hạnh phúc được gần 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên cự cải, bất hòa hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng đã sống ly thân gần 01 năm nay, trong thời gian chung sống vợ chồng chưa có con chung.
Tại phiên tòa hôm nay:
Chị X giữ nguyên yêu cầu, ý kiến như đã trình bày trên. Anh B vắng mặt nên không có ý kiến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký và các bên đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự;
- Về nội dung: Xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị Ngô Thị Mỹ X đối với anh Phạm Văn B là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị X xin ly hôn với anh B, bị đơn anh B có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên. Căn cứ vào các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi vụ án được thụ lý, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng hợp lệ cho các đương sự, thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (02 lần), quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh Bvắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Btheo thủ tục chung.
[3] Về nội dung vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị X và anh B cưới nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang theo giấy Chứng nhận kết hôn số 32/2015 ngày 27/02/2015 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp;
Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị X xin được ly hôn với anh B, do vợ chồng sống không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cự cải, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn được, anh chị đã ly thân từ tháng 6/2017 cho đến nay. Còn anh B thì trong suốt quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và thông báo hòa giải hợp lệ nhiều lần đến Tòa án để tiến hành hòa giải, hàn gắn tình cảm, trở về đoàn tụ nhưng anh B không hợp tác và cũng không trình bày ý kiến gì gửi đến Tòa án đối với yêu cầu xin ly hôn của chị X;
Tuy nhiên, qua xác minh ngày 12/9/2018 ý kiến của đại diện Ban lãnh đạo ấp và người thân của anh B đã xác định, trong quá trình vợ chồng chị X, anh B chung sống thì anh chị thường xuyên cự cải, bất hòa đời sống hôn nhân không hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân hơn 01 nay (Bút lục 41, 42). Tại phiên tòa hôm nay, chị X cương quyết xin ly hôn với anh B. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thấy yêu cầu xin ly hôn của chị X là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại các Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014.
- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị X xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.
[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Căn cứ Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Do chị Xlà nguyên đơn nên chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
[5] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận như nêu ở phần nhận định trên.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Xử cho ly hôn giữa chị Ngô Thị Mỹ X và anh Phạm Văn B.
2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị X xác định không có, không yêu cầu tòa giải quyết nên Hội đồng không xem xét giải quyết.
3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Chị Ngô Thị Mỹ X có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0001512 ngày 11 tháng 5 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy chị X đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Án xử công khai, đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 72/2018/HNGĐ-ST ngày 12/11/2018 về xin ly hôn
Số hiệu: | 72/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về