TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 71/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tam Hợp, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 73/2020/TLST – HS ngày 26 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trương Thị D, tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1983 tại huyện N, tỉnh Nghệ An.
Trú tại: Khối D, phường Q, thị xã T, tỉnh Nghệ An.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Dân tộc: Thổ;
Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: Trương Công M (đã chết), con bà: Phạm Thị T.
Chồng: Chưa có và có 01 người con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị tạm giữ, tạm giam: Từ ngày 09/7/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Hoàng Thị Thúy G; Sinh năm: 1992.
Trú tại: Xóm T, xã N1, huyện N, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 09/7/2020 nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về một đối tượng có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE màu sơn trắng đen bạc, biển kiểm soát 37B2-499.08 lưu thông trên đường thuộc khối 11, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Đến khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày tổ công tác Công an huyện Quỳ Hợp tuần tra tại khu vực thị trấn Q, huyện Q tiến hành kiểm tra đối tượng Trương Thị D là người đang điều khiển xe máy có đặc điểm như tin báo, phát hiện Trương Thị D đang cầm trên tay 01 hộp giấy bên trong có chứa 01 gói Polyetylen có chất bột nén màu trắng (nghi là chất ma túy), tổ công tác đã lập biên bản, thu giữ tang vật gồm hộp cát tông có chứa gói chất bột nén màu trắng (nghi là chất ma túy), xe máy, điện thoại và đưa Trương Thị D về trụ sở làm việc.
Trương Thị D khai nhận, do bị viêm xoang điều trị nhiều năm nhưng không khỏi, đầu năm 2020 qua bạn bè thông tin cho rằng sử dụng ma túy thì có thể chữa khỏi bệnh xoang nên bị cáo nghe theo, trong thời gian bán cửa hàng ăn uống trước cổng bệnh viện đa khoa TB Nghệ An, qua tìm hiểu những khách hàng đến ăn tại quán bị cáo xin được số thuê bao điện thoại của một người bán ma túy tại huyện Q. Đến khoảng 18 giờ ngày 09/7/2020 bị cáo đi đến nhà chị Hoàng Thị Thúy G, sinh năm 1992, trú tại xóm T, xã N1, huyện N, tỉnh Nghệ An mượn xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE màu sơn trắng đen bạc, biển số 37B2-499.08 để đi công việc, sau đó bị cáo điều khiển xe máy một mình đi từ thị xã T lên thị trấn Q, đem theo số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) để mua ma túy, trước khi đi bị cáo có mượn điện thoại của một người khác, gọi đến số điện thoại đã xin được trước đó, có một người đàn ông nghe máy giới thiệu tên là L hay L’ gì đó hẹn bị cáo đến thị trấn Q đứng ở ngã ba bên đường chờ. Khoảng hơn 20 giờ khi bị cáo đến ngã ba đường thuộc thị trấn Q thấy 01 người đàn ông đi đến hỏi bị cáo có đem theo đủ tiền không, bị cáo trả lời đem theo đủ và đưa cho người đàn ông đó số tiền 8.000.000 đồng. Người đàn ông cầm tiền và nói bị cáo đứng chờ một lúc, sau khi đi được vài phút người đàn ông đi quay lại treo vào tay cầm xe máy bị cáo đang đi 01 túi nilon màu trắng có in chữ “AN TRẦN”, bên trong túi nilon là 01 hộp cát-tông, người đàn ông đó nói “kiểm tra hàng đi” rồi phóng xe đi, bị cáo đưa lên lắc nhẹ thấy tiếng “cục-cục” nên biết trong đó có ma túy, bị cáo bỏ điện thoại vào trong túi nilon có chứa hộp giấy cát-tông đang quay xe để đi về thị xã T thì bị phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ tại bị cáo gồm 01 gói chất ma túy Heroine; 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS màu vàng trắng đã qua sử dụng; 01 xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE màu sơn trắng đen bạc, biển số 37B2-499.08.
Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại, lập ngày 10/7/2020 của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xác định:
+ Sau khi loại bỏ các mảnh Polyetylen và hộp gói bên ngoài, số chất bột nén màu trắng có khối lượng là 6,90 gam (Sáu phẩy chín mươi gam).
Để có cơ sở kết luận và theo yêu cầu công tác điều tra, hội đồng đã lấy 0,35g (Không phẩy ba lăm gam) chất bột nén màu trắng nói trên cho vào một túi Polyetylen dán kín rồi bỏ vào một phong bì thư do Công an huyện Quỳ Hợp phát hành dán kín, niêm phong đúng quy định để gửi đi giám định.
Số chất bột nén màu trắng còn lại có khối lượng là 6,55g (Sáu phẩy năm lăm gam) được cho vào một túi Polyetylen dán kín rồi bỏ vào một phong bì thư do Công an huyện Quỳ Hợp phát hành dán kín, niêm phong theo đúng quy định.
Kết luận giám định số: 1032/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 15/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:
“Mẫu chất bột nén màu trắng thu giữ của Trương Thị D gửi tới giám định là ma túy (Heroine). Số chất bột nén màu trắng thu giữ của Trương Thị D có khối lượng là 6,90g (Sáu phẩy chín mươi gam).” Bản cáo trạng số: 76/CT-VKS-QH ngày 24/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Trương Thị D về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Trương Thị D đã khai nhận và hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội và tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm g khoản 2 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trương Thị D từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.
Buộc bị cáo Trương Thị D phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi đã đưa đi giám định và các bao gói niêm phong.
+ Trả lại cho bị cáo Trương Thị D 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS màu vàng trắng, đã qua sử dụng, số IMEL353290075151431, có gắn thẻ sim 0973 727 964.
Bị cáo không có ý kiến, tranh luận gì thêm.
Nói lời nói sau cùng tại phiên tòa, bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những chứng cứ xác định có tội: Căn cứ tài liệu, chứng cứ cơ quan cơ quan điều tra Công an đã thu thập tại hồ sơ vụ án, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại, kết luận giám định, lời khai và biên bản hỏi cung tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa, có đủ căn cứ xác định:
Vào khoảng 20 giờ 15 phút ngày 09/7/2020 tại đoạn đường thuộc khối 11, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Tổ công tác Công an huyện Quỳ Hợp đã kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang bị cáo Trương Thị D đang có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy Heroine có khối lượng là 6,90 gam (Sáu phẩy chín mươi gam) với mục đích sử dụng để chữa bệnh. Hành vi nêu trên của bị cáo Trương Thị D đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự theo truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất gây nghiện. Vụ án xảy ra gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an ninh xã hội của địa phương, ma túy là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, nên cần lên cho bị cáo mức án nghiêm khắc nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân sống có ích cho xã hội và răn đe giáo dục phòng ngừa chung.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Mẹ đẻ bị cáo là người có công được Nhà nước tặng thưởng huân, huy chương đó là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Trương Thị D, do không xác định được tên tuổi và địa chỉ cụ thể, do đó không đủ cơ sở để điều tra, xác minh xử lý.
Đối với người tên M và người sử dụng tài khoản Zalo tên “T” do không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể, qua lời khai nhận của bị cáo thừa nhận không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên không xem xét xử lý.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, ... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo đang bị tạm giam, gia đình thuộc diện khó khăn, không có tài sản, công việc, nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư do Công an huyện Quỳ Hợp phát hành, được niêm phong theo đúng quy định, bên trong có chứa 6,55g (Sáu phẩy năm mươi lăm gam) ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo Trương Thị D là số ma túy còn lại sau khi đã đưa đi giám định, ma túy là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành.
+ Trả lại cho bị cáo Trương Thị D 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS màu vàng trắng, đã qua sử dụng, có số IMEL35329007515431, gắn thẻ sim 0973727964 là tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. (Vật chứng gồm ma túy và điện thoại, có đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 26/10/2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳ Hợp và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp).
+ Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE màu sơn đen trắng bạc, biển số 37B2-499.08, trong quá trình điều tra được xác định không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo, nên đã được cơ quan Cảnh sát điều tra ra quyết định trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, Hội đồng xét xử không xem xét thêm.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo chịu tiền án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trương Thị D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt: Bị cáo Trương Thị D 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 09/7/2020.
2. Vật chứng: Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư do Công an huyện Quỳ Hợp phát hành, được niêm phong theo đúng quy định, bên trong có chứa 6,55g (Sáu phẩy năm mươi lăm gam) ma túy loại Heroine thu giữ của bị cáo Trương Thị D.
+ Trả lại cho bị cáo Trương Thị D 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6S PLUS màu vàng trắng, đã qua sử dụng, có số IMEL35329007515431, gắn thẻ sim 0973727964.
(Vật chứng là ma túy và điện thoại, có đặc điểm chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 26/10/2020 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳ Hợp và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp).
3. Án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trương Thị D chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về phần trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.
Bản án 71/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 71/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về