TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H - TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 71/2020/HS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Nam Định mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2020đối với bị cáo:
Tạ Minh T, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Xóm 12, xã H, huyện H,tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Quốc V (đã chết) và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1956; Gia đình có 5 chị em, bị cáo là thứ năm; Chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 21- 9-2020 đến ngày 24-9-2020 thì chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. “có mặt”.
- Người chứng kiến: Anh Vũ Văn Th, sinh năm 1988; địa chỉ: Xóm T xã H, huyện H, tỉnh Nam Định. “vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 21-9-2020, Tạ Minh T đi bộ một mình từ nhà ở xóm 12, xã H, huyện H ra Quốc lộ 37, đi xe buýt đến khu vực chợ C, thị trấn C, huyện H gặp và mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi không biết rõ họ tên, tuổi và địa chỉ 01 gói ma túy đá với giá 300.000đ. Sau đó, T cất giấu gói ma túy vừa mua vào túi quần phía trước bên trái rồi đi bộ tìm địa điểm sử dụng. Khi T đi đến khu vực xóm T, xã H, huyện Hthì bị tổ công tác của Công an huyện H kiểm tra phát hiện bắt quả tang vào lúc 14 giờ 30 phút cùng ngày. Tổ công tác thu giữ của T 01 gói ni lông màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (niêm phong ký hiệu M). T khai nhận đó là ma túy đá vừa mua để sử dụng cho bản thân.
Tại bản kết luận giám định số 1017/GĐKTHS ngày 22-9-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 01 gói ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Methamphetamine, khối lượng 0,262 gam.
Bản cáo trạng số 69/CT-VKSHH ngày 30-10-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Tạ Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo thành khẩn khai nhận đã thực hiện hình vi như nội dung vụ án đã nêu ở trên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyên H giữ quyền công tố tại phiên toà giữ quan điểm truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Tạ Minh T từ 12 tháng đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21-9-2020;không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng của vụ án đã thu giữ trong quá trình điều tra theo quy định pháp luật.
Trong phần tranh luận: Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi vi phạm của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa người chứng kiến anh Vũ Văn Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên hồ sơ vụ án thể hiện đầy đủ lời khai của anh Thanh trong quá trình điều tra. Việc vắng mặt của người chứng kiến không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Lời khai nhận của bị cáo Tạ Minh T tại phiên toà được chứng minh bằng biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám địnhcủa Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, người chứng kiến cùng các tài liệu khác đã được lưu trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 30 phút ngày 21-9-2020, tại khu vực xóm Tr, xã H, huyện H, tổ công tác của Công an huyện H phát hiện bắt quả tang Tạ Minh T đang cất giấu trái phép 01 gói Methamphetamine có khối lượng 0,262 gamđể sử dụng cho bản thân.Hành vi nêu trên của Tạ Minh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bô luât Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố là có căn cứ.
[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thì thấy: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Ma tuý đã và đang gây tác hại xấu cho sức khoẻ của người sử dụng; làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, làm khánh kiệt về kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình và chính ma tuý là nguyên nhân làm gia tăng nhiều loại tội phạm, làm lan truyền nhiều loại bệnh dịch nguy hiểm. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung.
[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Trong vụ án này, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi vi phạm, khối lượng Methamphetamine thu giữ trong tay bị cáo không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt; Gia đình bị cáo có đơn đề nghị có xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh gia đình khó khăn: Bố đẻ bị cáo mất sớm, mẹ hay đau ốm, bản thân bị cáo chưa có vợ con là lao động chính nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là phù hợp.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, theo lời khai của bị cáo cũng như các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đều thể hiện, bị cáo không có thu nhập ổn định; bản thân bị nghiện ma túy. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà là phù hợp.
[7] Đối với người đàn ông bán ma túy cho T vào chiều ngày 21-9-2020 tại khu vực chợ C, thị trấn C, huyện H, do T không biết rõ họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ xác minh, xử lý.
[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy, sau giám định xác định là Methamphetamine có khối lượng 0,262gam. Xét đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Tạ Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Xử phạt bị cáo Tạ Minh T12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21-9-2020.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số 1017/GĐKTHS ngày 22-9-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.
(Vật chứng nêu trên được mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H lập ngày 05-11-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H).
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Tạ Minh T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 71/2020/HS-ST ngày 20/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 71/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về