Bản án 71/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DUY TIÊN - HÀ NAM

BẢN ÁN 71/2017/HSST NGÀY 29/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2017/HSST ngày 08 tháng 9 năm 2017, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2017/QĐXX-HSST ngày 15 tháng 9 năm 2017 đối với:

+ Bị cáo Bùi Tuấn L, sinh năm 1990; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Viết A  và  bà  Trịnh  Thị  T;  vợ  Bùi  Thị  Kiều  Tr;  chưa  có con;  Tiền  án:  Ngày 19/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù 01/12/2015, chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 18/01/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong 16/01/2013, đã được xóa án tích; bị tạm giữ ngày 20/7/2017, chuyển tạm giam ngày 23/7/2017; Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam, có mặt.

* Bị hại: Chị Lương Thị C, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn T, xã Ch, huyện D, tỉnh Hà Nam; vắng mặt;

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Quách Đình Th, sinh năm 1996 (Vắng mặt); Anh Quách Đình Kh, sinh năm 1984 (Vắng mặt); Cùng địa chỉ: thôn T, xã M, huyện P, thành phố Hà Nội.

- Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1968, địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện P, tỉnh Hưng Yên; Vắng mặt

* Người làm chứng:

- Bà Lương Thị L, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn T, xã Ch, huyện D, tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1966; địa chỉ: Thôn Y, xã M, huyện D,  tỉnh Hà Nam, vắng mặt.

- Anh Lê Văn L, sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn T, xã Ch, huyện D, tỉnh Hà Nam, vắng mặt;

- Anh Trịnh Thành L, sinh năm 1976; địa chỉ: Đội 6, thôn Th, xã M, huyện P, thành phố Hà Nội; vắng mặt;

- Anh Lương Văn Ch - Cán bộ Công an huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/6/2017, Bùi Tuấn L đến nhà Quách Đình Th ở thôn Th, xã M,huyện P, thành phố Hà Nội chơi và ở lại nhà Th. Đến khoảng 11h 30' ngày09/6/2017, sau khi ăn cơm trưa xong, L nói với Th "Tao và mày đi ăn trộm xe để lấy tiền tiêu", Th đồng ý nói "Vâng". L rút trong túi quần một chiếc vam phá khóa có cấu tạo gồm một cán tô vít và một mũi vam bằng kim loại, đầu được mài dẹt hơi nhọn đưa cho Th. Th cầm vam xem rồi trả lại L sau đó điều khiển xe mô tô BKS 89F7 - 0184 (xe của anh Quách Đình Kh) chở L ngồi phía sau đi từ nhà Th ra cầu Y, xã Ch, huyện D, vừa đi vừa quan sát tìm xe sơ hở để trộm cắp. Khi đến gầm cầu vượt đoạn đê sông Châu Giang thì Th dừng xe lại và bảo L "Ngồi đây chơi cho mát, khoảng 1h hãy đi". Đến 13h cùng ngày, Th điều khiển xe chở L ra đến khu vực cầu Yên Lệnh. Đến ngã ba rẽ vào thôn Từ Đài, xã Chuyên Ngoại, Th điều khiển xe rẽ phải được khoảng 20m, L nhìn thấy một chiếc xe Dream BKS 29N5 - 2893 của chị Lương Thị C dựng ở vệ đường, gần đầm sen, xung quanh không có ai. L nói với Th "Mày đi lên tí để tao nhìn người". Th lái xe chậm qua chiếc xe BKS 29N5 - 2893 khoảng 10m thì L nói với Th "Quay xe lại rồi đứng đợi tao". Th điều khiển xe quay lại, đi qua chiếc xe BKS 29N5 - 2893 khoảng 10m thì dừng lại, trông người cho L trộm cắp chiếc xe BKS 29N5 - 2893. Lúc này, L tiến đến vị trí chiếc xe BKS 29N5 - 2893, dùng hai tay quay xe ngang đường, ngồi lên yên đề nhưng xe không nổ máy được. Ngay lúc đó, chị C phát hiện và hô "trộm trộm" thì L cùng Th bỏ chạy. Th nhảy xuống ao sen thuộc xã Mộc Nam để trốn, sau đó bị bắt giữ; còn L bỏ chạy được. Đến ngày 20/7/2017, L bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Duy Tiên bắt theo lệnh truy nã.

Cơ quan điều tra thu giữ: 01 xe mô tô Dream BKS 29N5 - 2893 của chị Lương Thị C; 01 xe mô tô Wave màu xanh BKS 89F7 - 1084 của anh Quách Đình Kh; 01 chiếc điện thoại Samsung màu nâu của Quách Đình Th; 01 simđiện thại Vinaphone số thuê bao 0945260922 của Bùi Tuấn L; 01 chứng minhnhân dân mang tên Bùi Tuấn L do Công an tỉnh Hòa Bình cấp.

Kết luận định giá tài sản số 23 ngày 10/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Duy Tiên: “Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Lifan, kiểu xe Dream, BKS 29N5 - 2893, xe không có giấy tờ, là tài sản cũ đã qua sử dụng, có giá trị là 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng)”.

Cáo trạng số 68/CT-VKS ngày 06/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên truy tố Bùi Tuấn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Tuấn L từ 15 đến 18 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về vật chứng: trả lại cho anh Quách Đình Kh 01 xe môtô BKS 89F7-0184; trả lại cho Bùi Tuấn L 01 chứng minh thư, 01 sim số 0945260922.

Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt ngoài ra không tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Duy Tiên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Duy Tiên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Khoảng 13h ngày 09/6/2017, tại thôn Từ Đài, xã Chuyên Ngoại, huyệnDuy Tiên, lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản, Quách Đình Th đã cảnh giới choBùi Tuấn L lén lút dùng vam phá ổ khóa điện để trộm cắp xe mô tô BKS 29N5 -2893 trị giá 500.000đ của chị Lương Thị C thì bị chị C phát hiện, hô hoán quần chúng nhân dân bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Bùi Tuấn L gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, đồng thời ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của Bùi Tuấn L trộm cắp tài sản trị giá 500.000đ trong khi đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo do vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Từ nhận định trên HĐXX căn cứ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ xét thấy cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

Đối với Quách Đình Th cùng với bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tuy nhiên tài sản trị giá 500.000đ trong khi Th chưa có tiền án về tội chiếm đoạt và chưa có tiền sự về hành vi chiếm đoạt nên hành vi của Th không cấu thành tội phạm, cơ quan chức năng đã xử phạt hành chính đối với Th là đúng.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại chị Lương Thị C đã nhận lại xe mô tô BKS 29N5 - 2893 và không có yêu cầu đề nghị gì khác nên không đặt ra giải quyết.

Về vật chứng, tài sản thu giữ: Đối với xe môtô 89F7- 0184 là của anh Quách Đình Kh cho Quách Đình Th mượn đi trộm cắp tài sản nhưng Kh không biết nên cần trả lại cho Quách Đình Kh. Đối với 01 chứng minh thư, 01 sim số 0945260922 cần trả lại cho bị cáo.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật. Từ nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Tuấn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bùi Tuấn L 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2017.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho anh Quách Đình Kh: 01 xe môtô BKS 89F7-0184.

Trả  lại  cho  bị  cáo  Bùi  Tuấn  L:  01  chứng  minh  thư,  01  sim  số 0945260922.

(Đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận ngày 08/9/2017 giữa Công an huyện Duy Tiên và Chi cục thi hành án huyện Duy Tiên)

3.  Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội bị cáo Bùi Tuấn L phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liênquan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

292
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:71/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về