Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 27/02/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 70/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/02/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 27 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử công khai vụ án thụ lý số: 368/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2018 về việc “Tranh chấp HNGĐ, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Châu Thanh P, sinh năm 1970.

Bị đơn: Bà Thái Thị Kim V, sinh năm 1973.

Cùng cư trú: ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.

(Ông P có mặt, bà V vắng mặt, có đơn xin vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình tố tụng ông Châu Thanh P trình bày: Năm 1992, ông và bà V do cha mẹ định đoạt, có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Đến năm 2016 thì ông và bà V phát sinh mâu thuẫn do thường xuyễn cãi nhau, bất đồng quan điểm. Ông và bà V không còn sống chung từ năm 2016 đến nay. Nay ông xin ly hôn với bà V.

Về con chung: Có 02 con chung.

1/ Châu Thái Đ, sinh ngày 07/8/1994.

2/ Châu Thị Ái V, sinh ngày 12/5/2009.

Cháu Đ đã trưởng thành, sống tự lập nên ông P không yêu cầu. Cháu V đang sống với bà V. Khi ly hôn ông đồng ý để bà V tiếp tục nuôi cháu V, ông đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn là Thái Thị Kim V trình bày: Bà và ông P do cha mẹ định đoạt, tổ chức đám cưới vào năm 1992, không đăng ký kết hôn. Vào năm 2016 ông P có người phụ nữ khác, không chăm lo cho gia đình. Bà và ông P không còn sống chung từ năm 2016 đến nay, bà đồng ý ly hôn với ông P.

Về con chung: Có 02 con chung.

1/ Châu Thái Đ ,sinh ngày 07/8/1994.

2/ Châu Thị Ái V, sinh ngày 12/5/2009.

Cháu Đ đã trưởng thành, sống tự lập. Cháu V đang sống với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu tiếp tục nuôi cháu V, yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Cháu Châu Thị Ái V trình bày nguyện vọng muốn được sống chung với mẹ trong trường hợp cha, mẹ ly hôn.

Tại phiên tòa, ông P vẫn giữ nguyên ý kiến đã trình bày và ông đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 700.000 đồng đến khi cháu V đủ 18 tuổi. Bà V có đơn xin xét xử vắng mặt.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị HĐXX:

Về hôn nhân: Ông P và bà V xác định không có đăng ký kết hôn. Điều này phù hợp với xác nhận của UBND xã P vào ngày 12/02/2019 nên không công nhận ông P, bà V là quan hệ vợ chồng theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Có 02 con chung Châu Thái Đ, sinh ngày 07/8/1994 và Châu Thị Ái V, sinh ngày 12/5/2009. Cháu Đ đã trưởng thành và sống tự lập nên ông P, bà V không yêu cầu. Riêng cháu V, bà V yêu cầu được tiếp tục nuôi, cháu V trình bày nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ, ông P đồng ý để bà V tiếp tục nuôi cháu V. Vì vậy, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên ông P thống nhất giao cháu V cho bà V nuôi dạy là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83, 84 Luật HNGĐ năm 2014.

[2.3] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà V có yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại các Điều 107, 110, 116,117 Luật HNGĐ năm 2014.

Về tài sản chung và nợ chung: Các bên không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Ông P là nguyên đơn nên phải chịu án phí HNGĐ sơ thẩm. Ngoài ra, ông P còn phải chịu án phí cấp dưỡng. Bà V không phải chịu án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Châu Thanh P có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện A giải quyết về việc hôn nhân với bà Thái Thị Kim V, đồng thời bị đơn cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Bà V có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Ven.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Năm 1992, ông P, bà V được gia đình hai bên tổ chức đám cưới nhưng đến nay không đăng ký kết hôn. Mặc dù hôn nhân của ông bà được xác lập trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên sau đám cưới ông P, bà V không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc trình bày của ông P, bà V phù hợp với giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã P vào ngày 12/02/2019 nên hôn nhân giữa ông bà không có giá trị pháp lý theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử không công nhận ông Châu Thanh P và bà Thái Thị Kim V là quan hệ vợ chồng là có căn cứ và hợp pháp.

[2.2] Về con chung: Ông P, bà V thống nhất có 02 con chung Châu Thái Đ, sinh ngày 07/8/1994 và Châu Thị Ái Vy, sinh ngày 12/5/2009. Cháu Đ đã trưởng thành và sống tự lập nên ông P, bà V không yêu cầu. Bà V yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu V, cháu V cũng trình bày nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ, ông P đồng ý để bà V tiếp tục nuôi cháu V. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, HĐXX nghĩ nên chấp nhận để cho bà V tiếp tục nuôi dạy cháu V là phù hợp.

[2.3] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà V có yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 700.000 đồng đến khi cháu V trưởng thành. Xét thấy việc ông P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 700.000 đồng là phù hợp quy định pháp luật nên công nhận sự tự nguyện của ông P.

HĐXX cũng giải thích cho các đương sự biết: Bà V cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông P, bà V không yêu cầu xem xét giải quyết. Trường hợp sau này ông, bà có yêu cầu chia tài sản chung thì có quyền khởi kiện trong một vụ án khác.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì ông P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình và án phí cấp dưỡng nuôi con chung. Bà V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 9, 14, 15, 53, 58, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

Không công nhận ông Châu Thanh P và bà Thái Thị V là vợ chồng.

Về con chung: Bà V được quyền nuôi dưỡng cháu Châu Thị Ái V, sinh ngày 12/5/2009.

Ông P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 700.000 (bảy trăm ngàn) đồng. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày án có hiệu luật pháp luật cho đến khi cháu Châu Thị Ái V đến tuổi trưởng thành và tự lập được.

Bà V cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Án phí: Ông P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng. Khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009346 ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. Ông P nộp thêm 300.000 đồng.

Ông Pg được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bà V được quyền kháng cáo trong thời hạn trên kể từ khi nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 27/02/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:70/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về