Bản án 69/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 69/2020/HS-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 63/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 (Sau đây viết tắt là: 23/10/2020) theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2020/QĐXXST-HS ngày 16/11/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh năm 1975 tại Hà Nam; nơi cư trú: Thôn a, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Thị S; vợ: Trần Thị T; con: Có 03 con (Lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 12/8/2020 và chuyển tạm giam từ ngày 17/8/2020 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị T, sinh năm 1982;

nơi cư trú: Thôn a, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng: Anh Phạm Văn B; vắng mặt.

+ Người chứng kiến: Ông Trần Văn T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13h ngày 12/8/2020, tại khu vực chợ T thuộc thôn T1, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam. Tổ công tác Công an huyện Lý Nhân phối hợp với Công an xã N đang làm nhiệm vụ thì phát hiện Nguyễn Văn C điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave biển kiểm soát (Sau đây gọi tắt là BKS) 90B2-975.11 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính thì thu giữ trong lòng bàn trái của C 01 đoạn ống nhựa màu hồng, có kẻ sọc trắng, hàn kín hai đầu, kích thước dài khoảng 1,5cm; bên trong chứa chất bột màu trắng, dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT, C khai là ma túy mua về để sử dụng.

Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Văn C 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave, BKS 90B2-975.11.

* Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn C không thu giữ tài liệu, đồ vật gì liên quan đến vụ án.

* Tại bản kết luận giám định số 151/PC09-MT ngày 17/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,208 gam (không phảy hai trăm linh tám gam), loại: Heroine.

* Về nguồn gốc ma túy, Nguyễn Văn C khai: Khoảng 12h ngày 12/8/2020, C điều khiển xe môtô nhãn hiệu Honda Wave BKS 90B2-975.11 đến khu vực chợ T thuộc thôn T1, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam mua của một người đàn ông lạ mặt 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng về sử dụng, trên đường về thì bị bắt quả tang.

Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKSLN ngày 23/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Văn C về tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân luận tội: Giữ nguyên quan điểm kết tội đối với bị cáo như cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, yếu tố nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là: HĐXX): Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: xử phạt Nguyễn Văn C từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (là phạt tiền) đối với bị cáo, đồng thời đề xuất hướng xử lý vật chứng hiện đang thu giữ.

- Bị cáo Nguyễn Văn C đã thừa nhận và khai báo toàn bộ động cơ, mục đích cũng như diễn biến hành vi cất giấu trái phép chất ma túy vào chiều ngày 12/8/2020 cơ bản đúng như nội dung cáo trạng đã nêu. Ngoài ra, còn xác định đã nhiều lần mua ma túy hoặc được bạn nghiện cho ma túy để sử dụng, nhưng không nhớ rõ thời gian, địa điểm và người đã bán và cho ma túy đó. Bị cáo không có ý kiến gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, kết luận giám định và lời khai của người tham gia tố tụng khác trong vụ án. Bị cáo không có ý kiến bào chữa và tranh luận gì đối với cáo buộc của Viện kiểm sát, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Chị Trần Thị T tr×nh bÇy: chị và bị cáo Nguyễn Văn C là quan hệ vợ chồng. ChiÕc xe mô tô Honda Wave BKS 90B2-975.11 là tài sản chung của vợ chồng chị. Việc bị cáo sử dụng xe để thực hiện tội phạm chị hoàn toàn không biết, chị đề nghị HĐXX xem xét để chị được nhận lại chiếc xe mô tô trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, các vật chứng đã thu giữ tại hiện trường, bản kết luận giám định về ma túy, cũng như chính lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13h10’ ngày 12/8/2020, tại khu vực chợ T thuộc thôn T1, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Văn C đang có hành vi cất giấu trái phép 0,208 gam chất ma túy, loại Heroine để sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Lý Nhân bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn C đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quan điểm kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đảm bảo căn cứ pháp luật.

[2] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn C là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi này có ảnh huwongr trực tiếp đến chính sức khỏe cũng như hạnh phúc gia đình bị cáo, là nguyên nhân chân chính làm giảm sức khỏa lao động xã hội và phát sinh nhiều tnhiều tội phạm nguy hiểm khác cho cộng đồng, làm xã hội mất ổn định nghiêm trọng.

Bản thân bị cáo là người đã có gia đình, cuộc sống ổn định và ở độ tuổi nhận thức rõ về pháp luật, nhưng lại thiếu ý thức trong rèn luyện nhân cách để làm gương cho các con, lại luôn thể hiện lối sống tự do, buông thả bản thân sa vào nghiện ngập ma tuý, dẫn đến phạm tội. Do đó, để đảm tính răn đe và phòng ngừa tội phạm chung, đặc biệt là tội phạm về ma túy đang diễn ra rất phức tạp trong tình hình hiện nay, xét thấy cần thiết phải xử lý nghiêm minh, áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân; có bố đẻ được tặng Huy chương chiến sỹ giải phóng, Huy chương kháng chiến hạng nhất, Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng ba; mẹ đẻ được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. HĐXX sẽ cân nhắc yếu tố nhân thân và các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm tái hòa nhập cộng đồng, trở về xây dựng cuộc sống , cũng như thấy được tính nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội.

Xét thấy, cần tiếp tục tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án hình sự, nên quyết định tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án theo Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không để thu lợi bất chính, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Điều 35 và khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Số Heroine thu giữ của Nguyễn Văn C cùng bao gói, được Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam hoàn trả sau giám định không có giá trị sử dụng, nên tịch thu và tiêu huỷ.

- Chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda Wave BKS 90B2-975.11, sơn màu cam (xe đã cũ, có giá trị 15.385.000 đồng), quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa HĐXX xác định: Đây là tài sản chung của bị cáo Nguyễn Văn C và vợ là chị Trần Thị T. Bị cáo đã sử dụng chiếc xe mô tô này làm phương tiện để thực hiện tội phạm, do đó phải tịch thu, sung nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, xét thấy chị T hoàn toàn không biết việc bị cáo sử dụng xe để thực hiện tội phạm, do đó để đảm bảo quyền lợi cho chị T đối với tài sản chung của vợ, chồng, nên chị T sẽ được nhận lại số tiền bằng ½ giá trị của chiếc xe mô tô vào thời điểm Cơ quan Thi hành án dân sự quyết định thi hành án. Chị đề nghị được nhận lại toàn bộ chiếc xe là không có cơ sở chấp nhận.

[5] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

[7] Quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện theo quy định của pháp luật.

[8] Về vấn đề khác: Trong vụ án này, bị cáo khai mua ma túy của một người đàn ông không quen biết ở khu vực chợ T thuộc thôn T1, xã N, huyện L. Ngoài ra, còn khai đã nhiều lần mua ma túy hoặc có bạn nghiện cho ma túy để sử dụng, nhưng không nhớ rõ thời gian, địa điểm và danh tính của những người này. Xét thấy, ngoài lời khai duy nhất của bị cáo, không có thông tin chính xác hoặc có tài liệu, chứng cứ khác chứng minh về các đối tượng trên, nên không có căn cứ để xác minh, xử lý theo quy định của pháp luật, do đó HĐXX không đề cập.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tun bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 27 (Hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/8/2020.

[2] Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong có số 151/PC09-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, ghi “Mẫu vật hoàn trả QT”.

- Tịch thu, sung nộp ngân sách nhà nước: ½ giá trị chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave đeo BKS 90B2-975.11, sơn màu cam, số khung: RLHJA3910KY163749, số máy: JA39E-1021248 (xe đã cũ, qua sử dụng, không có bình ác quy). Chị Trần Thị T được nhận lại số tiền bằng ½ giá trị chiếc xe mô tô vào thời điểm Cơ quan thi hành án dân sự quyết định Thi hành án.

(Các vật chứng nêu trên có đặc điểm, tình trạng, số hiệu được ghi trong biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 26/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Lý Nhân và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lý Nhân).

[3] Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/HS-ST ngày 27/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về