TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 68/2019/LĐ-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 08/2019/TLST-LĐ ngày 12 tháng 3 năm 2019 về việc: “tranh chấp hợp đồng lao động”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2019/QĐXXST-LĐ ngày 10 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 44/2019/QĐST-LĐ ngày 03 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Danh D, sinh năm1970 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp 1, xã M, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.
Bị đơn: Công ty Cổ phần Mía đường H. (gọi tắt: Công ty H)
Người đại diện theo pháp luật: Ông Kumar Arunachalam M – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị. (xin vắng mặt)
Địa chỉ trụ sở: Khu vực 1, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Danh D trình bày:
Từ tháng 6 năm 2012, ông và Công ty H có ký hợp đồng lao động, ông làm việc tại bộ phận công nhân lò hơi hoặc việc khác khi có yêu cầu. Đến năm 2015, ông và Công ty có ký tiếp hợp đồng lao động xác định thời hạn 36 tháng, cũng với công việc là công nhân lò hơi hoặc việc khác khi có yêu cầu, hệ số là 1,65. Trong quá trình làm việc, Công ty chưa thanh toán tiền lương tháng 01/2016 là 952.200 đồng, lương tháng 02/2016 là 1.523.500 đồng, lương từ tháng 4/2016 đến tháng 9/2018 (29 tháng) theo mức lương tối thiểu vùng là 3.100.000đồng, tổng cộng 89.900.000 đồng. Tổng số tiền lương mà công ty Cổ phần Mía đường H phải chi trả cho ông là 92.375.700 đồng.
Nay ông Nguyễn Danh D yêu cầu Công ty H thanh toán tiền lương chưa trả là 92.375.700 đồng. Ngoài ra, ông D không có yêu cầu gì khác.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/10/2019, bị đơn là Công ty Cổ phần Mía đường H do ông Kumar Arunachalam M làm đại diện theo pháp luật trình bày đồng ý trả cho ông D số tiền 92.375.700 đồng. Đồng thời, đề nghị toàn bộ số tiền của công nhân khởi kiện ông đến Chi cục Thi hành án lấy tiền bán tài sản của công ty trả cho họ (tiền bán đấu giá tháng 8/2018), không lấy tiền cá nhân của ông. Tiền bán đấu giá ưu tiên trả nợ tiền lương công nhân rồi mới tới các khoản nợ khác.
Công ty đề nghị người lao động liên hệ Chi cục thi hành án lấy tiền trước.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng người đại diện theo pháp luật của bị đơn có đơn xin vắng mặt nên vụ án không hòa giải được và Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm như sau:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đương sự có mặt đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn ông Kumar Arunachalam M có đơn xin vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án.
Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bị đơn là Công ty Cổ phần Mía đường H do ông Kumar Arunachalam M làm đại diện theo pháp luật trình bày đồng ý trả cho ông D số tiền 92.375.700 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn Công ty H phải trả cho nguyên đơn số tiền 92.375.700 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Danh D khởi kiện yêu cầu bị đơn Công ty Cổ phần Mía đường H thanh toán tiền lương còn nợ; việc tranh chấp đã được hòa giải lao động và thời hiệu tranh chấp vẫn còn. Căn cứ các khoản 1 Điều 32, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 201, 202 của Bộ luật lao động năm 2012, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tố tụng là: “tranh chấp hợp đồng lao động” nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An theo thủ tục sơ thẩm.
[2] Tại phiên tòa, bị đơn Công ty H do ông Kumar Arunachalam M đại diện theo pháp luật có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Theo hợp đồng lao động ngày 08/12/2015 có căn cứ xác định giữa Công ty H với ông D có giao kết hợp đồng lao động có thời hạn là 36 tháng; việc xác lập hợp đồng lao động theo ý chí tự nguyện của các bên; mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật; không trái đạo đức xã hội và hình thức phù hợp với quy định tại Điều 16, Điều 23 và Điều 25 Bộ luật lao động năm 2012 nên có hiệu lực pháp luật và phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao kết.
[4] Về nội dung tranh chấp: Ông D yêu cầu Công ty H trả tiền lương còn nợ 01/2016 là 952.200 đồng, lương tháng 02/2016 là 1.523.500 đồng, lương từ tháng 4/2016 đến tháng 9/2018 (29 tháng) theo mức lương tối thiểu vùng là 3.100.000đồng, tổng cộng 89.900.000 đồng. Tổng số tiền lương mà công ty Cổ phần Mía đường H phải chi trả cho ông là 92.375.700 đồng. Công ty Cổ phần Mía đường H do ông Kumar Arunachalam M làm đại diện theo pháp luật trình bày đồng ý trả cho ông D số tiền 92.375.700 đồng. Xét thấy đây là sự thỏa thuận của các đương sự nên Hội đồng xét xử công nhận, buộc Công ty H có nghĩa vụ trả tiền lương còn nợ cho ông D là 92.375.700 đồng.
[5] Ông D không yêu cầu Công ty H trả tiền lãi chậm trả theo quy định tại Điều 96 của Bộ luật lao động năm 2012 là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử không không xem xét.
Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp là có căn cứ pháp luật nên chấp nhận.
[6] Về án phí sơ thẩm: Công ty H phải chịu tiền án phí sơ thẩm đối với số tiền phải trả cho ông D theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 32, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 90, Điều 96, Điều 201, Điều 202 của Bộ luật lao động năm 2012; Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Danh D về tranh chấp hợp đồng lao động với Công ty Cổ phần Mía đường H.
Buộc Công ty Cổ phần Mía đường H trả tiền lương còn nợ cho ông D là 92.375.700 đồng (chín mươi hai triệu, ba trăm bảy mươi lăm ngàn, bảy trăm đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong nếu bên phải thi hành án không trả số tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí: Buộc Công ty Cổ phần Mía đường H phải nộp 2.771.271 đồng án phí lao động sơ thẩm, sung vào ngân sách nhà nước.
Án xử sơ thẩm, công khai, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 68/2019/LĐ-ST ngày 24/10/2019 về tranh chấp hợp đồng lao động
Số hiệu: | 68/2019/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 24/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về