Bản án 68/2018/HSST ngày 29/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 68/2018/HSST NGÀY 29/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 

Ngày 29 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2018/HSST ngày 01 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2018/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Văn P; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1972; tại thị trấn BS, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; nơi ĐKNKTT: Xóm X, thị trấn BS, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; chỗ ở hiện nay: Bản ĐH, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Nn (đã chết) và bà Ngô Thị T, sinh năm 1950; bị cáo có vợ: Bùi Thị M; sinh năm: 1973 và 01 con, 7 tuổi; tiền sự: Không; tiên án: Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 24 ( hai mươi bốn) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị cáo bị  bị bắt giam giữ kể từ ngày 17-11-2017, cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 40 phút, ngày 17-11-2017, tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu S, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Trần Văn P, nơi ĐKNKTT: Xóm X, thị trấn BS, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; chỗ ở hiện nay: Bản ĐH, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói giấy màu trắng, bên trong có chứa một ít bột cục màu trắng nghi là Heroin ( P  khai là Heroin), có trọng lượng 0,12 gam. Rút 0,05 gam ký hiệu P1 làm  mẫu vật giám định chất ma túy. Còn lại 0,07 gam ký hiệu P2 ( đã được niêm phong).

- 01 bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long bên trong có 02 điếu thuốc;

- 01 chiếc xe mô tô BKS: 26 M1-020.98, loại xe Wave Rsx, nhãn hiệu HONDA;

- 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia, màu đen ( điện thoại đã qua sử dụng cũ).

Tại bản Kết luận giám định số: 18/KLGĐ, ngày 23-11-2017 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định ký hiệu P1 là chất ma túy, loại chất Heroin; trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 0,12 gam, loại chất Heroin”. (Hoàn lại mẫu vật gửi giám định gồm: Chất bột màu trắng ký hiệu P1, có trọng lượng 0,04 gam và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu giám định ban đầu đã bị cắt mép; P1 và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu giám định ban đầu được cho vào 01 phong bì thư đã được niêm phong).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Trần Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 13 giờ, ngày 17-11-2017, Trần Văn P điều khiển xe mô tô BKS: 26 M1-020.98, loại xe Wave Rsx, nhãn hiệu HONDA từ nhà ở bản Đông Hưng, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lên ngã ba xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp một người quen tên là T ( P không biết họ và địa chỉ cụ thể). P đưa cho T 100.000đ  và nhờ T mua hộ cho P một ít Heroin để sử dụng. T đồng ý còn P điều khiển xe đi đến khu vực cây xăng thuộc tiểu khu X, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để đợi T. Khoảng 15 phút sau không thấy T đến, P đã gọi điện thoại cho T, T nói là có việc bận nên sẽ nhờ người mang đến cho P. Một lúc sau có một thanh niên ( P không biết tên và địa chỉ cụ thể ở đâu) gọi điện thoại đến cho P và bảo P đi lên khu vực rừng ma bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La để lấy ma túy. P điều khiển đi lên đến nơi thì gặp người thanh niên đó và đưa cho P 01 bao thuốc lá hiệu Thăng Long bảo bên trong có Heroin. P cầm bao thuốc lá ở bên tay trái rồi điều khiển xe máy đi về. Khi đi đến tiểu khu X, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La thì gặp tổ công tác Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La yêu cầu kiểm tra. Do sợ P đã ném báo thuốc là chứa Heroin đang cầm trên tay xuống nhưng vẫn bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ cùng vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 34/CT-VKS,  ngày 01-3-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Trần Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn P về điều, khoản và tội danh trên

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h, khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, Điều 51; khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015; Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội;

Xử phạt bị cáo Trần Văn P mức án từ 16 đến 20 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17-11-2017.

Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và Điều 106 BLTTHS năm 2015:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,11 gam Hêrôin ký hiệu P2 và 0,04 gam Hêrôin ký hiệu P1 còn lại sau khi giám định được niêm phong trong phong bì thư và 01 bao thuốc lá hiệu Thăng long, bên trong có 02 điếu thuốc.

- Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia, màu đen ( điện thoại đã qua sử dụng cũ).

- Chấp nhận việc cơ quan điều tra đã trao trả lại chiếc xe mô tô BKS: 26 M1-020.98, loại xe Wave Rsx, nhãn hiệu HONDA cho chị Bùi Thị H; Bị cáo phải chịu toàn bộ án phí HSST theo quy định.

Ý kiến của bị cáo Trần Văn P: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo sớm được trở lại với gia đình và cộng đồng xã hội. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Ngày 17-11-2017, Trần Văn P; nơi ĐKNKTT: Xóm X, thị trấn BS, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; chỗ ở hiện nay: Bản ĐH, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,12 gam Heroin. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

[3]. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trước 00 giờ 00 phút ngày 01-01-2018, trước thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật. Căn cứ vào Nghị quyết số: 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội và khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, HĐXX xét thấy cần áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 để xét xử theo hướng có lợi đối với bị cáo. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định :

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

5.  Người  phạm  tội  còn  có  thể  bị  phạt  tiền  từ  5.000.000  đồng  đến 500.000.000 đồng,  cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[4]. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn P, tàng trữ trái phép chất ma tuý với số lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Trần Văn P.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn P đã có một tiền án chưa được xóa án tích, nay lại cố tình phạm tội là tái phạm được quy định khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 và  là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Trần Văn P thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015.

[7]. Song nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, biết rõ tác hại của ma tuý là Nhà nước cấm nhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xã hội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

[8]. Bị cáo Trần Văn P đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 BLTTHS năm 2015.

[9]. Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Trần Văn Phong còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với  bị cáo.

[10]. Đối vời người đàn ông tên T, P khai là người P nhờ đi mua hộ 100.000đ tiền ma túy. Và người thanh niên trực tiếp đưa gói ma túy cho P tại khu vực rừng ma bản C, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 17-11-2017. Phong không biết họ và địa chỉ cụ thể ở đâu. Do vậy cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

[11]. Đối với chiếc xe máy BKS: 26 M1-020.98, loại xe Wave Rsx, nhãn hiệu HONDA xe cũ đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định được chiếc xe trên là của chị Bùi Thị H; trú tại: Tiểu khu S, xã TL, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, việc bị cáo Trần Văn P mượn và sử dụng chiếc xe đi mua ma túy chị H không biết. Chị H có đơn xin lại xe. Do vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã trao trả lại chiếc xe máy trên cho chủ sở hữu hợp pháp là có căn cứ, đúng pháp luật.

[12]. Về vật chứng vụ án: Đối với 0,07 gam  Heroin ký hiệu P2 và 0,04 gam Heroin ký hiệu P1 thu giữ của bị cáo còn lại sau khi giám định là hàng quốc cấm, Nhà nước cấm lưu hành cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 bao thuốc lá hiệu Thăng long, bên trong có 02 điếu thuốc thu giữ của bị cáo  xét không còn giá trị sử dụng, cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Đối với  01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia, màu đen (điện thoại đã qua sử dụng cũ) thu giữ của bị cáo là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội cần tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước. Vận dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và Điều 106 BLTTHS năm 2015.

[13]. Về án phí: Bị cáo Trần Văn P phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định chung của Nhà nước. Vận dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: 

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h, khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14, ngày 20-6-2017 của Quốc Hội; Xử phạt bị cáo Trần Văn P 18 ( mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17-11-2017(là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015 và 106 BLTTHS năm 2015:

- Tiêu hủy:

+ Bột cục màu trắng là Heroin, có trọng lượng 0,07 gam được niêm phong trong phong bì thư.

+ Bột cục màu trắng là Heroin, có trọng lượng 0,04 gam ký hiệu P1 được niêm phong trong phong bì thư.

+ 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng long màu vàng đã bóc dở, bên trong có 02 điếu thuốc.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:  01 ( một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen, số IMEI 1: 355930041149685, máy đã qua sử dụng cũ.

4. Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTH năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14; ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo Trần Văn P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HSST ngày 29/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:68/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về