Bản án 68/2018/HSST ngày 25/10/2018 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 68/2018/HSST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình; Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2018/HSST ngày 24/9/2018; Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn Q, sinh năm 1981 (Tên gọi khác: Không). Nơi ở và ĐKNKTT: Thôn 2, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; con ông Trần Văn P và bà Trần Thị Đ; có vợ là Phạm Thị Hồng N và có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2010. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng kể từ ngày 24/9/2018). Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

2. Họ và tên: Trần Thế L, sinh năm 1986 (Tên gọi khác: Không). Nơi ở và ĐKNKTT: Thôn 2, xã G, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12. Con ông Trần Đăng N và bà Đinh Thị X; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Những người làm chứng: Anh Đinh Văn K, Ông Bùi Xuân H, Anh Nguyễn Văn N, Ông Phạm Hồng H, Anh Trần Văn Đ, Ông Vũ Văn T, Bà Lê Thị L.

Tại phiên tòa các bị cáo có mặt, tất cả những người làm chứng vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn Q lợi dụng vào kết quả giải thưởng của “Xổ số kiến thiết miền Bắc” được mở thưởng hàng ngày để tự mình đứng ra lập “Bảng số lô, đề’’ bán cho những người chơi “đánh lô, đề” bằng các hình thức mua bán trực tiếp hoặc nhắn tin qua điện thoại di động để đánh bạc với nhau được thua bằng tiền nhằm thu lợi bất chính. Sau khi có kết quả mở thưởng của “Xổ số kiến thiết miền Bắc” Trần Văn Q và những người chơi sẽ đối chiếu để tính toán việc thắng thua và thanh toán tiền cho nhau vào ngày hôm sau. Trần Văn Q và những người chơi mua số lô, số đề của Quý có sự thỏa thuận trước với nhau về “nguyên tắc và hình thức” cách chơi. Trần Văn Q đã giao dịch với những người đến nhà Q mua số lô, số đề Q sẽ trực tiếp ghi các số lô, đề cùng số tiền của người chơi đề vào một tờ giấy A4 (Quý không phải ghi “cáp đề” cho người chơi). Ngoài hình thức ghi nhận trực tiếp từ những người chơi số lô, số đề Q còn sử dụng 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 lắp sim thuê bao số 01695.164.416 để nhận các tin nhắn khi người chơi sử dụng điện thoại di động nhắn tin đến mua các số lô, đề của Q, sau khi nhận được tin nhắn Q sẽ ghi lại các số lô, số đề cùng số tiền của người chơi vào một tờ giấy A4 để lưu giữ lại làm căn cứ đối chiếu, thanh toán sau khi có kết quả mở thưởng.

Hồi 18 giờ ngày 26/6/2018, Tổ công tác Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Ninh Bình tiến hành kiểm tra hành chính nơi ở của Trần Văn Q đã phát hiện Q đang tổng hợp các số lô, đề bán cho khách trong ngày tại nhà Q và phát hiện Trần Văn Q vừa bán các số đề cho Trần Văn Đ ở thôn 2, xã G, huyện N với số tiền 260.000 đồng.

Quá trình điều tra đã xác định trong ngày 26/06/2018, Trần Văn Q đã ghi số lô, đề cho những người chơi cụ thể như sau: Trần Thế L mua 12 cặp số “Lô thường” (Lô Hà Nội) với tổng số tiền 8.625.000 đồng; Trần Văn Đ mua 15 số đề “loại 2 số” với tổng số tiền là 260.000 đồng; Bùi Xuân H mua 01 cặp số “Lô Xiên 3” và 08 cặp số đề “loại 2 số” với tổng số tiền 100.000 đồng; Phạm Hồng H mua 06 cặp số “Lô thường” (Lô Ninh Bình) và 20 cặp số đề “loại 2 số” với tổng số tiền 1.400.000 đồng; Lê Thị L mua 21 số đề “loại 2 số” với tổng số tiền là 90.000 đồng; Vũ Văn T mua 04 cặp số “Lô thường” (Lô Ninh Bình) với tổng số tiền là 400.000 đồng; Nguyễn Văn N sử dụng điện thoại nhãn hiệu Nokia 515 lắp sim thuê bao số 01687.781.196 gửi 03 tin nhắn đến điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 lắp sim thuê bao số 01695.164.416 của Q để mua 01 cặp số “Lô thường” (Lô Ninh Bình), 02 cặp số “Lô xiên 3” và 36 cặp số đề “loại 2 số” với tổng số tiền là 1.795.000 đồng; Đinh Văn K sử dụng điện thoại nhãn hiệu Masstel lắp sim thuê bao số 01642.383.393 để gửi 01 tin nhắn đến điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 lắp sim thuê bao số 01695.164.416 của Q để mua 01 cặp số “Lô thường” (Lô Ninh Bình) với tổng số tiền là 2.000.000 đồng.

Toàn bộ số tiền mua số lô, số đề của Trần Thế L, Trần Văn Đ, Bùi Xuân H, Phạm Hồng H, Lê Thị L, Nguyễn Văn N, Đinh Văn K tất cả đều chưa thanh toán tiền cho Q. Có mình Vũ Văn T đã trả số tiền là 400.000 đồng cho Q.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã chứng minh số tiền Trần Văn Q ghi số lô, đề cho các đối tượng mua lô, đề là 14.670.000 đồng. Trong đó của Trần Thế L được xác định là 8.625.000 đồng; Trần Văn Đ là 260.000 đồng; Bùi Xuân H là 100.000 đồng; Phạm Hồng H là 1.400.000 đồng; Lê Thị L là 90.000 đồng; Vũ Văn T là 400.000 đồng; Nguyễn Văn N là 1.795.000 đồng; Đinh Văn K là 2.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Trần Văn Q, Trần Thế L đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”.

Tại bản Cáo trạng số 64/CT-VKSNQ-HS ngày 24/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã quyết định truy tố các bị cáo Trần Văn Q, Trần Thế L ra trước Toà án nhân dân huyện N để xét xử về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng: Các điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự xử phạt:

+ Bị cáo Trần Văn Q từ 27.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

+ Bị cáo Trần Thế L từ 21.000.000 đồng đến 23.000.000 đồng.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 lắp sim thuê bao 01695.164.416 và số tiền 400.000 đồng thu giữ của bị cáo Trần Văn Q.

+ Truy thu nộp ngân sách Nhà nước: số tiền 8.625.000 đồng của bị cáo Trần Thế L (là tiền bị cáo Linh mua các số Lô của bị cáo Quý trong ngày 26/6/2018 L chưa thanh toán cho Q).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, các bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Các bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của các bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản các Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố cụ thể như sau: Lợi dụng vào kết quả giải thưởng của “Xổ số kiến thiết miền Bắc” được mở thưởng hàng ngày Trần Văn Q tự mình đứng ra lập “Bảng số lô, đề’’ bán cho những người chơi “đánh lô, đề” bằng các hình thức mua bán trực tiếp hoặc nhắn tin qua điện thoại di động để đánh bạc với nhau được thua bằng tiền nhằm thu lợi bất chính. Trong ngày 26/6/2016 Trần Văn Q đã có hành vi bán số lô, số đề cho những người chơi lô, đề với tổng số tiền là 14.670.000 đồng. Trong đó số tiền cụ thể của các người chơi được xác định của Trần Thế L là 8.625.000 đồng; Trần Văn Đ là 260.000 đồng; Bùi Xuân H là 100.000 đồng; Phạm Hồng H là 1.400.000 đồng; Lê Thị L là 90.000 đồng; Vũ Văn T là 400.000 đồng; Nguyễn Văn N là 1.795.000 đồng; Đinh Văn K là 2.000.000 đồng.

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, biên bản kiểm tra hành chính và các chứng cứ tài liệu có liên quan trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở để khẳng định trong ngày 26/6/2018 Trần Văn Q, Trần Thế L có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức chơi lô, đề với tổng số tiền đánh bạc của bị cáo Trần Văn Q được chứng minh là 14.670.000 đồng và của bị cáo Trần Thế L là 8.625.000 đồng. Hành vi nêu trên của các bị cáo là cố ý, có tính chất vụ lợi nhằm tạo ra thu nhập bất chính. Theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự thì “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Như vậy, hành vi nêu trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh lô, đề của các bị cáo là trái phép đã trực tiếp xâm phạm đến lĩnh vực trật tự công cộng được Nhà nước bảo hộ, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương nhưng vì mục đích lợi nhuận mà các bị cáo bất chấp cố ý thực hiện. Do vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án thật nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội các bị cáo gây ra. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, nhân thân các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thấy:

Đối với bị cáo Trần Văn Q: Trong vụ án này bị cáo là người lợi dụng vào kết quả của Xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng hàng ngày để tự mình đứng ra làm chủ lô, đề. Bản thân Q tự đứng ra lập bảng số lô, đề để bán cho nhiều người chơi. Do vậy bị cáo Trần Văn Q phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đầu trong vụ án này. Do vậy khi quyết định hình phạt cần đưa ra hình phạt nghiêm khắc và cao hơn bị cáo Trần Thế L.

Đối với bị cáo Trần Thế L là người chơi mua các số Lô của bị cáo Trần Văn Q. Vì vậy bị cáo L giữ vai trò thứ hai trong vụ án này.

Các bị cáo Trần Văn Q, Trần Thế L đều là những người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi và đánh lô, đề trái phép nhằm tạo ra thu nhập bất chính của mình là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Xong ngoài lần phạm tội này ra các bị cáo luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách pháp luật không vi phạm những điều mà pháp luật cấm, chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính điều đó chứng tỏ các bị cáo là người có nhân thân tốt. Mặt khác, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội ít nghiêm trọng nên không nhất thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mà chỉ cần áp dụng hình thức phạt tiền là hình phạt chính cũng đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Trong quá trình điều tra Trần Văn Q còn khai nhận trong khoảng thời gian từ đầu tháng 6 năm 2018 đến khi bị phát hiện Q đã nhiều lần ghi số lô, số đề cho những người Q không biết tên tuổi, địa chỉ sau đó tổng hợp và chuyển toàn bộ “Bảng lô, đề” qua tin nhắn điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 lắp sim thuê bao số 01695.164.416 của Q đến số điện thoại 0911.186.926 của Nguyễn Đức C sinh năm 1984 trú tại thôn H, xã T, huyện T, tỉnh Thái Bình để hưởng hoa hồng và trong ngày 26/6/2018 sau khi bán cho khách Q đã nhắn tin chuyển “bảng lô, đề” cho C với số tiền 27.480.000 đồng. Q xác định trong “bảng lô, đề” Q chuyển cho C có 14.670.000 đồng của khách chơi và 11.910.000 đồng tiền Q tự bỏ ra mua các số lô, đề của Cường. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã tiến hành xác minh nhiều lần tại địa phương nơi Nguyễn Đức C sinh sống, chính quyền địa Phương xác định C và gia đình C đã bỏ đi khỏi địa phương, không rõ địa chỉ C hiện nay đang ở đâu. Đến nay không có lời khai của C xác nhận về hành vi đánh bạc với Trần Xuân Q vì vậy Cơ quan điều tra Công an huyện N đã tách hành vi của C ra để điều tra xác minh xử lý sau.

Ngoài ra Trần Văn Q khai nhận trong ngày 26/6/2018 Quý còn bán các số lô, đề cho một nam thanh niên qua đường 04 cặp số “Lô thường”, 01 số đề “loại 2 số” và 01 số đề “loại 3 số” với số tiền 900.000 đồng (được Quý ghi vào tờ giấy A4 bị Cơ quan điều tra thu giữ). Do Quý không biết tên tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh xử lý.

Đối với hành vi đánh bạc của Trần Văn Đ, Bùi Xuân H, Phạm Hồng H, Lê Thị L, Vũ Văn T, Nguyễn Văn N, Đinh Văn K. Quá trình điều tra xác định bản thân Đ, H, H, L, Th, N, K chưa có tiền án, tiền sự, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc dưới 5.000.000 đồng. Công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Văn Đ, Bùi Xuân H, Phạm Hồng H, Lê Thị L, Vũ Văn Th, Nguyễn Văn N, Đinh Văn K đồng thời truy thu số tiền mua số lô đề của Đ, H, H, L, N, K là thỏa đáng.

[4] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 515 lắp sim thuê bao số 01687.781.196 thu giữ của Nguyễn Văn N, 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel lắp sim thuê bao số 01642.383.393 thu giữ của Đinh Văn K cơ quan Công an đã ra quyết định xử lý tịch thu sung quỹ Nhà nước là phù hợp quy định pháp luật.

- 01 tờ giấy khổ A4 (trên mặt giấy có các số lô, đề bằng mực màu xanh, có chữ ký của Trần Văn Q đề ngày 26/6/2018) được chuyển theo hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 lắp sim thuê bao 01695.164.416 thu giữ của Trần Văn Q là phương tiện bị cáo sử dụng liên lạc nhận ghi lô, đề cho các đối tượng khác cần tịch thu sung quỹ Nhà nước - Đối với số tiền 400.000 đồng thu giữ của Trần Văn Q là tiền bị cáo có được từ việc ghi số lô, đề cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với số tiền mà Trần Thế L đã mua số lô đề của Trần Văn Q là 8.625.000 đồng nhưng vẫn còn nợ bị cáo Q cần truy thu để sung quỹ Nhà nước.

[5]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Q, Trần Thế L phạm tội “Đánh bạc”;

Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt:

- Bị cáo Trần Văn Q 21.000.000đ (Hai mươi mốt triệu đồng).

- Bị cáo Trần Thế L 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a, b khoản 2 Điều 106 BLTTHS;

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy J3 lắp sim thuê bao 01695.164.416 thu giữ của Trần Văn Q.

(Số tiền 400.000 đồng hiện đang ở tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện N tại Kho bạc nhà nước huyện N theo ủy nhiệm chi lập ngày 04/10/2018).

(Chi tiết theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/10/2018 giữa Cơ quan CSĐT công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

- Truy thu của bị cáo Trần Thế L số tiền 8.625.000 đồng (là tiền bị cáo L mua các số Lô của bị cáo Q trong ngày 26/6/2018 mà bị cáo L chưa thanh toán cho bị cáo Q) nộp ngân sách Nhà nước.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 các điều 135, 136 của BLTTHS; áp dụng Điều 21, Điều 23, Điều 24 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí Tòa án. Buộc Trần Văn Q, Trần Thế L mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HSST ngày 25/10/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:68/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về