Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 21/09/2018 về tranh chấp quyền nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 68/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON

Ngày 21 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 192/2017/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 4 năm 2017 về tranh chấp “Quyền nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2018/QĐST-HNGĐ ngày 14/8/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lin Chin Ch, sinh năm 1956.

Địa chỉ: Công Ty TNHH Haiyaih, thôn Phát Chi, xã Trạm Hành , thành phố ĐL, tỉnh LĐ.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Phan Thị Lệ Th – Là Luật sư thuộc Văn phòng luật sư AB –Đoàn luật sư tỉnh LĐ.

Bị đơn: Bà Hà Ngọc H, sinh năm 1975

Địa chỉ: Thôn Trường Thọ, xã Trạm Hành, thành phố ĐL, tỉnh LĐ.

Người bảo vệ, quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng Trung H- Là Luật sư thuộc Văn phòng luật sư H và các cộng sự - Đoàn luật sư Thành Phố HCM.

Người Phiên dịch: Ông Huỳnh Diệu V.

Địa chỉ: Nguyễn Thi Minh Khai, phường A, thành phố ĐL, tỉnh LĐ.

(Các đương sự, Luật sư, người phiên dịch đều có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng nguyên đơn ông Ông Lin Chin Ch trình bày: Ông và bà Hà Thúy L không đăng ký kết hôn, về chung sống với nhau từ năm 1997 tại xã Xuân Trường, thành phố ĐL. Trong quá trình chung sống, ông và bà L có ba người con tên: Lin Nam Y, sinh ngày 04/12/1999 (đã chết năm 2001); Lin Tien Ch, sinh ngày 02/5/2002 và Lin Tien B, sinh ngày 29/9/2009. Năm 2015 bà Hà Thúy L chết, hai con Lin Tien Ch và Lin Tien B do bà Hà Ngọc H là em ruột của bà Hà Thuý L nuôi dưỡng cho đến nay. Ông đã thỏa thuận với gia đình bà L để nuôi hai con nhưng không được. Nay ông yêu cầu toà án xem xét cho ông được quyền nuôi dưỡng hai con theo quy định của pháp luật.

Theo bản tự khai và quá trình tố tụng bà Hà Ngọc H trình bày: về quan hệ hôn nhân và con cái giữa ông Lin Chin Ch và bà Hà Thúy L (là chị gái của bà) như ông Ch trình bày là đúng. Theo bà đề nghị của ông Lin Chin Ch thì cháu Lin Tien Ch là con của ông Lin Chin Ch cháu có muốn chung sống với ông Ch hay không là quyền của cháu; còn cháu Lin Tien B khi bà Linh còn sống ông Ch đã không thừa nhận là con của ông Ch và chị L khi còn sống cũng khẳng định là không phải con của ông Ch, ông Ch chỉ mới gặp bà và gia đinh bà một lần duy nhất để thỏa thuận. Vì vậy bà và gia đình bà không đồng ý giao cháu Lin Tien B cho ông Ch nuôi dưỡng.

Tại phiên tòa ông Lin Chin Ch vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện,yêu cầu được quyền nuôi hai con tên Lin Tien Ch và Lin Tien B để thực hiện trách nhiệm với các con, và để hoá giải sự hiểu lầm giữa cha con.

Bị đơn bà H vẫn giữ nguyên ý kiến không đồng ý với yêu cầu của ông Lin Chin Ch, giao hai cháu Lin Tien Ch và Lin Tien B cho ông Ch nuôi bà không an tâm, vì ông Ch không quan tâm đến con khi các cháu cần, mà chỉ gặp gỡ bà để trao đổi về tài sản và gây gổ với con, làm ảnh hưởng đến sức khẻo của cháu Lin Tien Ch (cháu bị bệnh tim).

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Lin Ching Ch bởi lẽ: Về mặt pháp luật bà Hà Thuý L và ông Lin Chin Ch là người đăng ký giấy khai sinh cho các con tên Lin Tien Ch và Lin Tien B, theo qui định tại điều 69, 70 Luật hôn nhân gia đìnhu không có hành vi nào bị hạn chế quyền nuôi con. Về mặt thực tế ông Ch vẫn cùng bà L nuôi dưỡng, chăm sóc con khi bà L còn sống, chỉ sau khi bà L chết do hoàn cảnh lúc bấy giờ ông Ch bị dư luận và cả gia đình bà L nghi ngờ là người có liên quan đến cái chết của bà L, nên ông Ch không thể trực tiếp gặp gỡ các con để nuôi dưỡng các con. Sau khi nghe bà H thông tin cháu B không phải con của ông nhưng về mặt tình cảm ông Ch vẫn yêu cầu nuôi cháu B vì ông nghĩ không công sinh cũng có công dưỡng. Về mặt tâm lý các cháu yêu cầu ở với bà Hương là vì phần nào bị tác động của người lớn.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu quyền nuôi con của ông Lin Chin Ch trong thời điểm hiện nay. Bởi lẽ yêu cầu quyền nuôi con của ông Lin Chin Ch tại thời điểm này là chưa cần thiết, việc thay đổi sẽ anh hưởng đến tâm lý của các cháu. Hơn nữa theo qui định của các điều 14.15 và 81 Luật hôn nhân gia đình, Toà án giao con cho ai nuôi phải xem xét đến nguyện vọng của các con, mà các cháu thì có nguyện vọng ở với dì là bà Hương. Cuộc sống của các cháu đang ổn định, học hành rất tốt, ông Ch là người nước ngoài giao cho ông Ch nuôi con về ngôn ngữ sẽ không thuận lợi trong việc giao tiếp, dạy dỗ và giúp đỡ các cháu trong học tập; mặt khác bà H và gia đình bà L có đủ điều kiện về kinh tế để nuôi dưỡng và cháu sóc và giáo dục các cháu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố ĐL phát biểu ý kiến về sự tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cũng như của Hội đồng xét xử tại phiên tòa và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng. Về giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lin Chin Ch. Buộc bà Hà Ngọc H giao lại quyền nuôi cháu tên Lin Tien C, sinh ngày 02/5/2002 cho ông Lin Chin Ch trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên. Giao cháu tên Lin Tien, sinh ngày 29/9/2009 là con của bà Hà Thúy L (đã chết) cho bà Hà Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viên kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Ông Lin Chin Ch khởi kiện yêu cầu được quyền nuôi con chung giữa ông và bà Hà Thúy L(đã chết) hiện do bà Hà Ngọc H là người nuôi dưỡng, nên quan hệ tranh chấp là “ Quyền nuôi con”. Bà Hà Ngọc H có địa chỉ số Thôn Trường Thọ, xã Trạm Hành, thành phố ĐL, theo Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố ĐL.

[2] Về cầu của các bên đương sự nhận thấy: Ông Lin Chin Ch và bà Hà Thúy L không đăng ký kết hôn, về chung sống với nhau từ năm 1997 tại xã Xuân Trường, thành phố ĐL, tỉnh LĐ. Trong quá trình chung sống, theo giấy khai sinh giữa ông Lin Chin Ch và bà Hà Thuý L có ba người con chung tên: Lin Nam Y, sinh ngày 04/12/1999 (đã chết năm 2001); Lin Tien Ch, sinh ngày 02/5/2002 và Lin Tien B, sinh ngày 29/9/2009. Năm 2015 bà Hà Thúy Li chết, hai con tên Lin Tien Ch và Lin Tien B do bà Hà Ngọc H là em ruột của bà Hà Thúy L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến nay theo đăng ký giám hộ tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh ĐT. Nay ông Lin Chin Ch yêu cầu được quyền nuôi dưỡng hai con theo quy định của pháp luật. Bà Hà Ngọc H không đồng ý với yêu cầu của ông Lin Chin Ch. Xét thấy tại phiên toà các bên đương sự và các Luật sư bảo về quyền lợi hợp pháp cho các bên đương sự đều đưa ra các luận cứ về mặt pháp luật, về yêu tố tâm sinh lý, về điều kiện thực tế của các cháu, về điều kiện nuôi các cháu của hai bên để bảo về quyền nuôi hai cháu Lin Tien Ch và Lin Tien B nhằm đem lại lợi ích chính đáng cho các cháu. Xong theo qui định của pháp luật cha mẹ có nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, nên yêu cầu được quyền nuôi con của ông Lin Chin Ch là có cơ sở, tuy nhiên đối với cháu Lin Tien B mặc dù theo giấy khai sinh của cháu có tên cha là ông Lin Chin Ch, song theo kết quả theo kết quả xét nghiêm AND của Trung tâm phân tích AND và công nghệ di truyền thực hiện theo Quyết định trưng cầu giám định của Tòa án nhân dân thành phố ĐL thể hiện giữa cháu Lin Tien B, sinh ngày 29/9/2009 và ông Lin Chin Ch không có cùng quan hệ huyết thống. Tòa án lấy lời khai hai cháu yêu cầu được ở với bà H. Vì vậy chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lin Chin Ch, giao cháu Lin Tien Ch, sinh ngày 02/5/2002 cho ông Lin Chin Ch trực tiếp nuôi dưỡng và tiếp tục giao cháu Lin Tien Ba, sinh ngày 29/9/2009 cho bà H trực nuôi dưỡng theo giấy đăng ký giám hộ số: 01 ngày 01/02/20016 của UBND xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh ĐT.

[3] Về chi phí tố tụng: Chi phí cho việc giám định AND theo yêu cầu của bà H hết 6.500.000d, bà H đã bỏ ra chi phí, bà H thoả thuận chịu chịu số tiền này nên ghi nhận.

[4]Về án phí: Do chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lin Chin Ch nên bà Hà Ngọc H phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ các Điều 14,15, 69, 70, 71, 72 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1-Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Lin Chin Ch, khởi kiện tranh chấp “Quyền nuôi con” đối với bà Hà Ngọc H.

- Buộc bà Hà Ngọc Hương giao lại quyền nuôi cháu tên Lin Tien Ch, sinh ngày 02/5/2002 là con chung của ông Lin Chin Ch và bà Hà Thúy L (đã chết) cho ông Lin Chin Ch trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên.

- Giao cháu tên Lin Tien B, sinh ngày 29/9/2009 là con của bà Hà Thúy L (đã chết) cho bà Hà Ngọc H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên theo đăng ký giám hộ số: 01 ngày 01/02/20016 của Ủy ban nhân dân xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, tỉnh ĐT.

Quyền trông nom con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

2. Về án phí:

- Bà Hà Ngọc H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

- Hoàn trả cho ông Lin Chin Ch 300.000đ tạm nộp án phí hôn ông Ch đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0007850 ngày 22 tháng 3 năm 2017 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố ĐL.)

3. Về quyền kháng cáo: Ông Lin Chin Ch, bà Hà Ngọc H có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1050
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 21/09/2018 về tranh chấp quyền nuôi con

Số hiệu:68/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về