Bản án 67/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 12/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 70/2020/TLST-HS ngày 28/5/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2020/QĐXXST-HS ngày 01/6/2020 đối với bị cáo:

Quàng Thị P (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 01/9/1993, tại thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKHTT và chỗ ở hiện nay: Bản LM, xã CX, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (Học vấn): 11/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông Quàng Văn M, sinh năm: 1969 và bà Lường Thị B, sinh năm: 1968; bị cáo không có chồng, có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không.

Án tích: Ngày 31/7/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. (Đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/3/2020 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 11 giờ ngày 21/3/2020, tổ công tác Công an phường CL, thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 12, phường CL, thành phố Sơn La đã phát hiện bắt quả tang Quàng Thị P có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Quá trình bắt giữ cơ quan công an thu giữ vật chứng gồm: 06 gói giấy màu trắng có dòng kẻ bên trong có cục, bột màu trắng (P tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên trái phía trước đang mặc ra giao nộp và khai nhận là Heroine cất giữ để sử dụng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Quàng Thị P khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, khoảng 08 giờ ngày 21/3/2020, Quàng Thị P đón xe ô tô Buýt đi từ nhà tại bản LM, xã CX, thành phố Sơn La đến khu vực bản T, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy để sử dụng. Đến nơi, P xuống xe đi bộ một đoạn thì gặp và mua được của một người nam giới (không biết họ tên, tuổi và địa chỉ) 06 gói ma túy với số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). P cất số ma túy vừa mua được vào túi áo khoác bên trái phía trước đang mặc rồi đón xe ô tô Buýt quay về thành phố Sơn La. Khi đến khu vực dốc két nước (thuộc tổ 08, phường CL, thành phố Sơn La), P xuống xe đi bộ đến khu vực tổ 12, phường CL, thành phố Sơn La tìm nơi sử dụng ma túy thì bị Cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang thu giữ vật chứng.

Ngày 21/02/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu giám định vật chứng, kết quả cân tịnh:

+ Số cục bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ nhất có khối lượng: 0,06 gam; Lấy 0,05 gam (ký hiệu P1) làm mẫu gửi giám định; còn 0,01 gam (ký hiệu P2) làm mẫu lưu kho.

+ số cục bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ hai có khối lượng: 0,05 gam; Lấy 0,02 gam (ký hiệu P3) làm mẫu gửi giám định; còn 0,03 gam (ký hiệu P4) làm mẫu lưu kho.

+ Số cục bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ ba có khối lượng: 0,09 gam; Lấy 0,04 gam (ký hiệu P5) làm mẫu gửi giám định; còn 0,05 gam (ký hiệu P6) làm mẫu lưu kho.

+ Số cục bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ tư có khối lượng: 0,05 gam; Lấy 0,04 gam (ký hiệu P7) làm mẫu gửi giám định; còn 0,01 gam (ký hiệu P8) làm mẫu lưu kho.

+ Số cục bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ năm có khối lượng: 0,06 gam; Lấy 0,04 gam (ký hiệu P9) làm mẫu gửi giám định; còn 0,02 gam ký hiệu P10 làm mẫu lưu kho.

+ Số cục bột màu trắng trong gói giấy màu trắng có dòng kẻ thứ sáu có khối lượng: 0,04 gam; Lấy 0,03 gam (ký hiệu P11) làm mẫu gửi giám định; còn 0,01 gam (ký hiệu P12) làm mẫu lưu kho.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra Quyết định trưng cầu giám định số 968/QĐ-ĐCSKT-MT đối với số ma túy thu giữ của Quàng Thị P. Kết luận giám định số 516 ngày 24/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: "Mẫu gửi giám định ký hiệu P1, P3, P5, P7, P9, P11 đều là ma túy; loại Heroine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,22 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,35 gam loại Heroine”.

Tại phiên tòa bị cáo trình bày ý kiến giữ nguyên lời khai của mình, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung nào làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo nhận tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Tại bản Cáo trạng số 104/CT-VKSTP ngày 27 tháng 05 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Quàng Thị P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Quàng Thị P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng các căn cứ pháp luật xử lý đối với bị cáo như sau:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Quàng Thị P từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 21/3/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 06 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P2; Mẫu lưu có khối lượng 0,03 (Không phẩy không ba) gam ký hiệu P4; Mẫu lưu có khối lượng 0,05 (Không phẩy không năm) gam ký hiệu P6; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P8; Mẫu lưu có khối lượng 0,02 (Không phẩy không hai) gam ký hiệu P10; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P12”.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Quàng Thị P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa, bị cáo Quàng Thị P khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo và trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa, bị cáo vẫn giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 11 giờ 10 phút ngày 21/3/2020; vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng; kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Ngày 21/3/2019 bị cáo Quàng Thị P đã có hành vi tàng trữ 0,35 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định mức hình phạt tù từ 01 năm đến 5 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, bản thân đã có một tiền án. Ngày 31/7/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. (Đã được xóa án tích). Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian dài là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng cần xem xét sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, bản thân không có công việc và thu nhập ổn định và không có tài sản gì có giá trị, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đi với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 06 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P2; Mẫu lưu có khối lượng 0,03 (Không phẩy không ba) gam ký hiệu P4; Mẫu lưu có khối lượng 0,05 (Không phẩy không năm) gam ký hiệu P6; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P8; Mẫu lưu có khối lượng 0,02 (Không phẩy không hai) gam ký hiệu P10; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P12”, xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng, do đó cần tuyên tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[5] Đối với người người nam giới đã bán ma túy cho bị cáo (Như bị cáo đã khai), do bị cáo không biết họ, tên và địa chỉ của người này. Do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Thị P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Quàng Thị P 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 21/3/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

2. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tch thu, tiêu hủy: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 06 mảnh giấy màu trắng có dòng kẻ; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P2; Mẫu lưu có khối lượng 0,03 (Không phẩy không ba) gam ký hiệu P4; Mẫu lưu có khối lượng 0,05 (Không phẩy không năm) gam ký hiệu P6; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P8; Mẫu lưu có khối lượng 0,02 (Không phẩy không hai) gam ký hiệu P10; Mẫu lưu có khối lượng 0,01 (Không phẩy không một) gam ký hiệu P12” đã được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/6/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Quàng Thị P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 12/6/2020). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về