Bản án 67/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAH’LEO, TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại Phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện EaH’Leo mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2019/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn K; (Tên gọi khác: Tuấn, Toàn; Thành), sinh năm 1978, tại tỉnh Hải Dương; Nơi đăng ký HKTT: Đ7, xã TH, huyện TH1, tỉnh Hải Dương; Chỗ ở hiện nay: Không có nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn D (đã chết) và bà Bùi Thị L; Vợ là Đỗ Thị Th (đã ly hôn) và 01 người con sinh năm 2004;

Tiền án: Ngày 14/5/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 02 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản của công dân theo Bản án số 01/1997/HSST. Ngày 22/02/2000 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương, xử phạt 18 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản của công dân theo Bản án số 12/2000/HSST. Ngày 19/11/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 06 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 227/2004/HSPT. Ngày 17/01/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 04 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 18/2011/HSST. Ngày 27 tháng 8 năm 2014 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/6/2019, đến ngày 27/6/2019 chuyển sang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ea H’Leo, có mặt.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Đ - sinh năm 1956. Nơi cư trú: T3, xã CM, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Lê Minh Th - sinh năm 1982. Nơi cư trú: T3, xã CM, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

Ông Nguyễn Văn Đ1 - sinh năm 1953. Nơi cư trú: T3, xã CM, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

Chị Nguyễn Thị Kim A - sinh năm 1983. Nơi cư trú: T3, xã CM, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

Ông Phạm Văn Đ2 - sinh năm 1978. Nơi cư trú: T1, xã CM, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 09 tháng 8 năm 2015, Lê Văn K đi bộ lang thang trên đường thuộc xã CM, huyện E, tỉnh Đắk Lắk để tìm kiếm tài sản trộm cắp. Khi K đi đến nhà của bà Nguyễn Thị Đ, ở T3, xã CM, huyện E, thì K phát hiện nhà bà Đ khóa cửa nên K đi vào và lấy một cây sắt đang để ở trước nhà cạy cửa rồi đi vào phòng ngủ cạy tủ gỗ và lấy được số tiền 1.300.000 đồng. Lúc này, anh Lê Minh Th, là con trai bà Đ phát hiện truy hô nên K đã bỏ chạy ra ngoài. Nghe thấy tiếng truy hô của anh Th thì anh Nguyễn Văn Đ1 và anh Phạm Văn Đ2 đang ở gần đó chạy đến và cùng anh Th khống chế và bắt giữ được K. Quá trình khống chế bắt giữ, K bị thương tích nên được đưa đến Bệnh viện đa khoa huyện Ea H’Leo để chữa trị, tại đây K đã bỏ trốn. Đến ngày 24/6/2019, Lê Văn K bị Công an xã ĐBS, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông bắt giữ theo Quyết định truy nã số 07 ngày 17/6/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã tạm giữ 01 cây sắt vằn màu đen dài 42 cm, tròn 3 cm, hình dạng một đầu dẹp, một đầu có hình dạng cong hình chữ “V” 3 cm, do K để lại hiện trường; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt nhẫn có hình dấu rồng, phía bên trong có in số 9999; 01 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng, mặt trên có in hình con ngựa; 01 dây chuyền bằng kim loại màu vàng có chiều dài 61 cm gồm nhiều mắt xích nhỏ kết nối với nhau; 01 ví da màu vàng; 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Lê Văn K và số tiền 2.242.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã ra Quyết định xử lý vật chứng, giao trả số tiền 1.300.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Đ, giao trả 02 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng; 01 dây chuyền bằng kim loại màu vàng; 01 ví da màu vàng; số tiền 942.000 đồng; 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Lê Văn K cho anh Lê Đức T (là anh trai của Lê Văn K). Đối với 01 cây sắt không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định.

Tại bản Cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 06 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’leo truy tố để xét xử đối với bị cáo Lê Văn K về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo cáo trạng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Văn K từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 24 tháng 6 năm 2019.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả số tiền 1.300.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Đ; giao trả 02 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng, 01 dây chuyền bằng kim loại màu vàng, 01 ví da màu vàng;, số tiền 942.000 đồng, 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Lê Văn K cho anh Lê Đức T (là anh trai của Lê Văn K) quản lý của tài sản của Lê Văn K.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cây sắt không còn giá trị sử dụng, là công cụ mà bị cáo K sử dụng vào việc phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Đ không yêu cầu bồi thường về dân sự, nên không đề cập xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã Đ tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ea H’Leo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 14 giờ, ngày 09 tháng 8 năm 2015, tại T3, xã CM, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, Lê Văn K đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 1.300.000 đồng của bà Nguyễn Thị Đ thì bị bắt phạm tội quả tang. Quá trình khống chế bắt giữ, K bị thương tích nên được đưa đến Bệnh viện đa khoa huyện E để chữa trị, tại đây K đã bỏ trốn. Đến ngày 24/6/2019, Lê Văn K bị Công an xã ĐBS, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông bắt giữ theo Quyết định truy nã số 07 ngày 17/6/2016 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo đã truy tố bị cáo Lê Văn K, về tội: Trộm cắp tài sản, theo quy định tại 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm ".

Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự trị an tại địa phương.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ nhận thức để biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật, thế nhưng do động cơ tham lam, lười lao động và ý thức coi thường pháp luật, nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo là người có nhân thân xấu, tại bản án số số 18/2011/HSST ngày 17/01/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 04 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 27 tháng 8 năm 2014 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích, sau khi chấp hành xong hình phạt thì đến 09/8/2015 bị cáo lại tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản. Mặc dù lần phạm tội này giá trị tài sản chưa đủ định lượng mà điều luật quy định. Tuy nhiên, trước khi thực hiện hành vi phạm tội này bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” và chưa được xóa án tích, nên hành vi phạm tội lần này đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Sau khi bị bắt phạm tội quả tang, trong quá trình điều trị thương tích tại bệnh viện đa khoa huyện Ea H’Leo, bị cáo đã bỏ trốn một thời gian dài và bị bắt theo lệnh truy nã. Như vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng một mức hình phạt đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Cần cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và giao trả cho chủ sở hữu, bị cáo phạm tội trong trường hợp gây thiệt hại không lớn. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Gia đình bị cáo có công với cách mạng, ông Lê Văn D là cha của bị cáo đã có nhiều thành tích xuất sắc đối với đất nước: 2 lần được nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và được ghi tên trong bảng vàng ghi công. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xét lời luận tội của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật, nên cần chấp nhận.

[4]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả số tiền 1.300.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Đ; giao trả 02 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng, 01 dây chuyền bằng kim loại màu vàng, 01 ví da màu vàng, số tiền 942.000 đồng, 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Lê Văn K cho anh Lê Đức T (là anh trai của Lê Văn K) quản lý tài sản của Lê Văn K.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cây sắt không còn giá trị sử dụng, là công cụ mà bị cáo K sử dụng vào việc phạm tội.

(Đặc điểm các vật chứng được mô tả tại biên bản thu giữ, giao nhận vật chứng lưu tại hồ sơ vụ án)

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Đ không yêu cầu bồi thường về dân sự, nên không đề cập xem xét.

[6]. Về án phí: Lê Văn K, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn K (tên gọi khác: Tuấn, Toàn, Thành), phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Văn K 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 24 tháng 6 năm 2019.

Các biện pháp tư pháp:

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ea H’Leo đã giao trả số tiền 1.300.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Đ; giao trả 02 chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng, 01 dây chuyền bằng kim loại màu vàng, 01 ví da màu vàng, số tiền 942.000 đồng, 01 Giấy phép lái xe mô tô mang tên Lê Văn K cho anh Lê Đức T (là anh trai của Lê Văn K) quản lý tài sản của Lê Văn K.

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cây sắt không còn giá trị sử dụng, là công cụ mà bị cáo K sử dụng vào việc phạm tội.

(Đặc điểm các vật chứng được mô tả tại biên bản thu giữ, giao nhận vật chứng lưu tại hồ sơ vụ án)

Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Đ không yêu cầu bồi thường về dân sự, nên không đề cập xem xét.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Văn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về