Bản án 67/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Văn B, sinh ngày 12/12/1993 tại Lạng Sơn; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Số 38/2, đường C, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trinh độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn S (đã chết) và bà Hoàng Thị L; vợ: Lộc Quỳnh N; con: Có 01 con, sinh năm 2015; tiền án: Không có; tiền sự: Ngày 03/11/2016 Tòa án nhân dân thành phố L quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đến ngày 26/7/2017 trốn khỏi cơ sở cai nghiện; nhân thân: Ngày 16/7/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích) bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2019 đến nay, có mặt.

2. Nguyễn Phương L, sinh ngày 30/8/1988 tại Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 8/3, đường C, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trinh độ học vấn: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Linh Tuyết M; chồng: Đinh Hữu T; con: Có 03 con; con lớn sinh năm 2007; con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Ngày 22/6/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố L xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/01/2019 đến nay, có mặt.

- Người làm chứng: Nguyễn Văn T; sinh năm 1986; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trịnh Xuân T, sinh năm 1966; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ ngày 07/01/2019 Hoàng Văn B điều khiển xe mô tô đến nhà Nguyễn Phương L chơi. Do cả hai đều là người nghiện ma túy nên Nguyễn Văn B đưa cho Nguyễn Phương L 500.000 đồng để mua ma túy cùng sử dụng. Nguyễn Phương L cầm tiền rồi điện thoại cho một phụ nữ tên "Hoa" đặt mua ma túy. Khoảng 01 tiếng sau, người phụ nữ đem ma túy đến nhà đưa cho Nguyễn Phương L. Nguyễn Phương L trả tiền và cầm túi ma túy vào nhà đưa cho Nguyễn Văn B gồm ba viên ma túy ngựa, một ít ma túy ngựa màu xanh bị vỡ vụn và ma túy đá. Nguyễn Văn B lấy một viên ma túy nhựa đặt lên trên giấy bạc đốt nóng qua bình rồi cùng Nguyễn Phương L sử dụng. Sau đó cả hai đi ngủ.

Khong 12 giờ 30 ngày 08/01/2019 Nguyễn Văn B gọi điện cho Nguyễn Văn T đặt mua thức ăn cho vật nuôi và hẹn đem đến nhà của Nguyễn Phương L để giao cho Nguyễn Văn B và nhận tiền. Tại đây Nguyễn Văn B lại lấy ra một viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá do Nguyễn Phương L mua từ tối hôm trước ra rồi cả ba người cùng sử dụng tại phòng ngủ của Liên thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 01 túi ni lon màu trắng bên trong chứa một viên nén màu hồng, các cục nén màu xanh đã vỡ và chất tinh thể màu trắng và 01 chai nhựa có gắn vòi hút tự chế là công cụ sử dụng ma túy.

Khám xét tại phòng ngủ của Nguyễn Phương L thu giữ 01 túi nilon kích thước 3,5 x 3,5cm bên trong chứa chất bột màu vàng; 01 hộp hình chữ nhật màu đỏ kích thước 2,5 x 5 x 18cm, bên trong có 01 túi ni lon màu trắng kích thước 1,5 x 2cm chứa chất tinh thể màu trắng và cục chất bột màu xanh; 01 túi nhỏ cầm tay màu đen bên trong có 01 túi ni lon màu trắng kích thước 3,5 x 3,5cm bên trong có 04 viên nén màu hồng. Tại ngăn tủ quần áo thu giữ 01 túi ni lon màu trắng, kích thước 3,5 x 3,5cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng và 09 viên nén màu hồng; 1.500.000 đồng của Nguyễn Phương L; số tiền 1.370.000 đồng và 01 giấy phép lái xe mang tên Hoàng Văn B và nhiều dụng cụ phục vụ cho việc sử dụng ma túy khác.

Tại Kết luận giám định số 67/KL-PC09 ngày 10/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Phong bì số 01 đựng chất ma túy thu giữ của Hoàng Văn B gồm 01 viên nén màu hồng, các cục nén màu xanh và chất tinh thể màu trắng đều là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,264 gam (đã trừ bì).

Phong bì ký hiệu (02) đựng chất ma túy thu giữ khi khám xét phòng ngủ của Nguyễn Phương L gồm túi 01: Chất bột màu vàng là chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng 0,347gam (đã trừ bì); túi 02: 04 viên nén màu hồng là chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng 0,403gam (đã trừ bì); túi 03: Chất tinh thể màu trắng và chất cục bột màu xanh là chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng 0,134gam (đã trừ bì); túi 04: Chất tinh thể màu trắng và 09 viên nén màu hồng là chất ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng 1,671gam (đã trừ bì); Tổng khối lượng ma túy đã thu giữ của Nguyễn Phương L là 2,555 gam.

Tại bản cáo trạng số 66/KSĐT ngày 26/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Phương L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, các bị cáo Hoàng Văn B và Nguyễn Phương L đều thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Hoàng Văn B và Nguyễn Phương L đều thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên nội dung truy tố như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Phương L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Văn B từ 20 tháng đến 24 tháng tù; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; Điều 58; 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Phương L từ 06 năm đến 07 năm tù, tổng hợp với 07 năm tù tại bản án số 82/2017/HSST ngày 22/6/2017, của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 13 đến 14 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì các bị cáo đều không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì đựng chất ma túy đã niêm phong hoàn lại sau giám định; 30 túi nilon màu trắng diện 1,5 x 1,5cm; 01 cuộn giấy bạc đã sử dụng; 01 bộ bình vòi bằng nhựa và một chiếc cân tiểu ly điện tử màu xám, mặt sau có in dòng chữ Made in China; tịch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen của Nguyễn Phương L số Imei 355079/08/18076/2 đã cũ màn hình bị nứt vỡ; trả lại cho bị cáo Nguyễn Phương L 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng số Imei: 354406063639323; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Ilel màu xanh số Imei: 359623091223541 và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh số Imei: 357902/05/014933/1 đều đã sử dụng và 1.500.000 đồng; trả cho bị cáo Hoàng Văn B 1.370.000 đồng và 01 giấy phép lái xe mang tên Hoàng Văn B. Buộc các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận các bị cáo không có ý kiến tranh luận; trong lời nói sau cùng các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để có điều kiện nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng của bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản sự việc, biên bản khám xét; kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Phương L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; bị cáo Hoàng Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của các bị cáo Nguyễn Phương L và Hoàng Văn B là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Các bi cao nhân thưc được tac hai cua ma tuy và biết viêc mua bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma tuy là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới sức khỏe, thiệt hại về kinh tế của cá nhân và gia đình, đồng thời là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng các bị cáo vân cố ý thực hiện.

[4] Đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, bởi lẽ các bị cáo không có sự bàn bạc và tổ chức chặt chẽ. Do đều là đối tượng nghiện ma túy và để thỏa mãn cơn nghiện, các đối tượng lại tụ tập đưa tiền cho nhau mua ma túy cùng sử dụng. Người giữ vai trò chính là Hoàng Văn B, chính bị cáo Bằng đã trực tiếp đưa tiền cho bị cáo Nguyễn Phương L để mua ma túy. Như vậy, bị cáo là người thực hành vừa là người xúi giục. Đối với bị cáo Nguyễn Phương L mặc dù biết hành vi mua bán trái phép ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, tuy nhiên vì là đối tượng nghiện ma túy nên đã tiếp tay cho Hoàng Văn B đóng vai trò giúp sức.

[5] Về nhân thân: Các bị cáo Nguyễn Phương L và Hoàng Văn B là những người có nhân thân xấu. Với bị cáo Nguyễn Phương L ngoài hành vi tàng trữ 0,264 gam ma túy đã mua cùng Hoàng Văn B đêm 07/01/2019, bị cáo còn tàng trữ 2,555gam ma túy đã mua trước đó bị thu giữ khi khám xét. Vì vậy lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần, đây là tình tiết định khung tăng nặng. Đối với bị cáo Hoàng Văn B đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích); ngày 03/11/2016 Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên đến ngày 26/7/2017 đã trốn khỏi cơ sở cai nghiện đến nay vẫn sử dụng ma túy.

[6] Tình tiết tăng nặng: Ngày 22/6/2017, bị cáo Nguyễn Phương L đã bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 07 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy và đang được hoãn thi hành. Nay lại tiếp tục phạm tội, đây là tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Hoàng Văn B không có tình tiết tăng nặng.

[7] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Phương L và Hoàng Văn B đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đó tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được xem xét khi quyết định hình phạt.

[8] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân các bị cáo, thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ. Vì vậy, việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bi cao là cần thiết, đê các bi cao có thời gian học tập và lao động và sớm trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, góp phần răn đe và phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[9] Về hình phạt bổ sung: Tại các biên bản xác minh về tài sản và thu nhập ngày 25/01/2019 xác định các bị cáo Nguyễn Phương L và Hoàng Văn B đều không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định và tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Gồm 02 (hai) phong bì đã niêm phong đựng chất ma túy hoàn lại sau giám định; 30 túi nilon có diện 1,5 x 1,5cm; 01 cuộn giấy bạc đã sử dụng; 01 chai nhựa có gắn vòi hút màu hồng; 01 túi gỉả da cầm tay màu đen; 01 hộp hình chữ nhật màu đỏ kích thước 2,5 x 5 x 18cm; 01 ví giả da màu đen; một chiếc cân tiểu ly điện tử màu xám, mặt sau có in dòng chữ Made in China là vật Nhà nước cấm tàng trữ và công cụ để sử dụng mua bán ma túy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Riêng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen số Imei 355079/08/18076/2 đã cũ màn hình bị nứt vỡ, bị cáo Nguyễn Phương L đã sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước; ngoài ra trong quá trình khám xét đã tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng số Imei: 354406063639323; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Ilel màu xanh số Imei: 359623091223541; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh số Imei: 357902/05/014933/1 đều đã qua sử dụng và số tiền 1.500.000 đồng của Nguyễn Phương L; số tiền 1.370.000 đồng và 01 giấy phép lái xe của Hoàng Văn B. Thấy rằng không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên trả lại cho các bị cáo là phù hợp.

[11] Đối với người phụ nữ tên "Hoa" đã bán ma túy cho Nguyễn Phương L, do không xác định được tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án. Đối với Nguyễn Văn T đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Lạng Sơn đã ra quyết định xử phạt hành chính. Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[12] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 56; các Điều 58, 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Phương L. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58, 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn B; khoản 2; 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Phương L, Hoàng Văn B phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương L 06 (sáu) năm tù; tổng hợp với 07 năm tù tại bản án số 82/2017/HSST ngày 22/6/2017, của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 13 năm tù; được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam là 46 ngày theo bản án số 82/2017/HSST ngày 22/6/2017. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành án.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn B 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (08/01/2019) 3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) phong bì đã niêm phong đựng chất ma túy hoàn lại sau giám định; 30 túi nilon có diện 1,5 x 1,5cm; 01 cuộn giấy bạc đã sử dụng; 01 chai nhựa có gắn vòi hút màu hồng; 01 túi gỉả da cầm tay màu đen; 01 hộp hình chữ nhật màu đỏ kích thước 2,5 x 5 x 18cm; 01 ví giả da màu đen; 01 chiếc cân tiểu ly điện tử màu xám, mặt sau có in dòng chữ Made in China.

Tch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen số Imei 355079/08/18076/2 đã cũ màn hình bị nứt vỡ; trả lại cho bị cáo Nguyễn Phương L 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng vàng số Imei: 354406063639323; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Ilel màu xanh, số Imei: 359623091223541 và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh số Imei: 357902/05/014933/1 đều đã qua sử dụng và 1.500.000 đồng. Trả lại bị cáo Hoàng Văn B 01 giấy phép lái xe số 200136005249 và 1.370.000 đồng;

(Vật chứng nói trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, theo biên bản giao nhận vật chứng ngàỳ 25/3/2019 và phiếu chuyển khoản, chuyển tiền điện tử lập ngày 28/3/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn và Kho bạc Nhà nước tỉnh Lạng Sơn)

3. Án phí: Các bị cáo Nguyễn Phương L và Hoàng Văn B mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về