Bản án 67/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 67/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 07/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 409/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/10/2019 về việc tranh chấp Hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23/10/2019 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Quách Thị T, sinh năm 1994 (có mặt)

Nơi ĐKHKTT: phố B, xã A, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

Chỗ ở: thôn AC, xã ĐS, huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang

2. Bị đơn: Anh Lê Thanh T, sinh năm 1986 (có mặt)

Nơi cư trú: phố B, xã A, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Quách Thị T trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Lê Thanh T vào ngày 05/01/2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa Hòa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng nhau tại phố B, xã A, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận. Đến đầu năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống dẫn đến cãi vã, đánh chửi nhau. Vợ chồng và gia đình hai bên nhiều lần nói chuyện, giải hòa nhưng do tình cảm vợ chồng không còn nên không thể hòa thuận được với nhau. Đến ngày 10/9/2019 vợ chồng lại tiếp tục mâu thuẫn to tiếng, cãi nhau, anh T đuổi chị ra khỏi nhà nên chị đã về nhà bố mẹ ở cho đến nay không quay về chung sống cùng anh T nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể chung sống cùng nhau được nữa nên chị xin được ly hôn với anh T.

Về con chung: vợ chồng chị có 01 con chung là Lê Anh Vũ, sinh ngày 12/11/2016. Hiện nay cháu Vũ đang chung sống cùng với anh T. Ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Vũ Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện nay chị đang làm công nhân tại Công ty bao bì Casablanca ở cụm công nghiệp Nghĩa Hòa, Lạng Giang, Bắc Giang cách chỗ ở của chị khoảng 10km. Thu nhập bình quân là 7.000.000đ/ tháng. Thời gian làm việc thực tế của tôi là từ 07 giờ sáng đến 17 giờ 30 phút chiều. Chị đang ở cùng với bố mẹ đẻ nên có chỗ ở ổn định, khi đi làm thì bố mẹ ở nhà trông nom con chung cho chị. Hơn nữa, hiện nay cháu Vũ còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên cần phải có mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng thì mới đảm bảo cho cháu phát triển bình thường. Anh T không có công ăn việc làm ổn định, thường xuyên ở nhà chơi nên không đảm bảo cho việc nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng chị không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo, bị đơn là anh Lê Thanh T trình bày: Anh xác nhận thời gian kết hôn, đăng ký kết hôn và quá trình chung sống và mâu thuẫn vợ chồng như chị T trình bày là đúng. Anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống cùng nhau được nữa. Vì vậy, chị T xin ly hôn thì anh đồng ý.

Về con chung: vợ chồng anh có 01 con chung là Lê Anh Vũ, sinh ngày 12/11/2016. Hiện nay cháu Vũ đang ở cùng với anh, cháu khỏe mạnh, phát triển bình thường. Ly hôn anh xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lý do anh xin nuôi dưỡng con chung mà không để chị T nuôi con là vì: Chị T không quan tâm, chăm sóc gì cho con; chị T đi làm thường xuyên phải tăng ca đến đêm mới về, không có thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng cho con chung. Hiện nay cháu Vũ đang đi học mẫu giáo lớp 03 tuổi ở gần nhà nên việc đưa đón cháu Vũ đi học rất thuận tiện. Còn nếu cháu Vũ ở cùng chị T thì anh không yêu tâm. Tuy có ông bà ngoại trông nom khi chị T đi làm. Nhưng cháu Vũ đi học rất xa, chị T đi làm về muộn không có thời gian chăm sóc cho con.

Trước đây anh làm thuê trông quán game (quán nét) ở gần nhà thu nhập bình quân khoảng 10.000.000đ/ tháng. Còn hiện tại thì anh đã nghỉ làm thuê ở quán game để về sửa chữa nhà mở quán game riêng. Vì vậy anh có đủ thời gian để nuôi dưỡng, chăm sóc cho con.

Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng anh không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các đương sự không thống nhất thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

Tại phiên tòa: Chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T; đề nghị được nuôi dưỡng cháu Vũ.

Anh T đồng ý ly hôn với chị T và xin được nuôi dưỡng cháu Vũ.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang tham gia phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện nghiêm túc, đúng theo quy định của pháp luật.

- Nội dung giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Quách Thị T và anh Lê Thanh T.

Về con chung: Giao cho chị Quách Thị T nuôi dưỡng con chung là Lê Anh Vũ, sinh ngày 12/11/2016.

Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn khởi kiện của chị Quách Thị T cùng các tài liệu nộp kèm theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình. Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện Lạng Giang. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục tố tụng dân sự pháp luật đã quy định. Đối với nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành nghiêm túc, thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đều có mặt.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Quách Thị T và anh Lê Thanh T có đăng ký kết hôn vào ngày 05/01/2016 tại UBND xã Nghĩa Hòa, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó quan hệ hôn nhân giữa chị T, anh T là hợp pháp.

Về tình trạng hôn nhân, Hội đồng xét xử xét thấy rằng: Lời khai của chị T, anh T đều xác định vợ chồng có sảy ra mâu thuẫn to tiếng, cãi nhau, xô xát đánh nhau và đã có khoảng thời gian sống ly thân từ ngày 10/9/2019 cho đến nay không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau.

Tại phiên tòa hôm nay, chị T và anh T đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, tình trạng hôn nhân của vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị T xin ly hôn thì anh T đồng ý. Do vậy cần công nhận thuận tình ly hôn giữa chị T và anh T.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị T, anh T có một con chung là Lê Anh Vũ, sinh ngày 12/11/2016. Ly hôn, chị T và anh T đều đề nghị xin được nuôi dưỡng con chung.

Xét về điều kiện nuôi dưỡng con chung: Cả T, anh T hiện nay đều có chỗ ở, có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đều có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc cho con chung. Tuy nhiên, do cháu Vũ hiện nay còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cháu Vũ cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc để đảm bảo cho cháu Vũ phát triển tốt về mọi mặt theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh T có quyền làm đơn đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung; nghĩa vụ chung về tài sản: Chị T, anh T đều không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, nộp tiền án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Quách Thị T và anh Lê Thanh T.

2. Về con chung: Giao cho chị Quách Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Anh Vũ, sinh ngày 12/11/2016.

Sau khi ly hôn anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Anh T có quyền làm đơn đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Quách Thị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0007470 ngày 10/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Xác nhận chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:67/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về