Bản án 67/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 67/2018/HS-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 11 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2018/TLST-HS ngày 01/11/2018 đối với bị cáo:

Trần Quốc T; sinh năm 1984; tại xã VA, huyện VL, tỉnh Thanh Hoá; trú tại: thôn 8, xã VA, huyện VL, tỉnh Thanh Hoá; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc T và bà Vũ Thị T; vợ là Cù Thị H (đã ly hôn) và có một con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 05/11/2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trung tâm giáo dục – lao động xã hội để cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong quyết định ngày 09/11/2014.

- Tại bản án số 58/2016/HSST ngày 30/12/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tuyên miễn trách nhiệm sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/8/2018 đến ngày 29/8/2018 chuyển tạm giam đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: anh Phạm Hải Q, sinh năm 1995; nơi cư trú: tiểu khu 1, thị trấn HT, huyện HT, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 23/8/2018 tại đường vào khu dân cư bên cạnh nhà máy thuốc lá Thanh Hóa thuộc tiểu khu 3, thị trấn HT, huyện HT, Tổ công tác Đội điều tra tội phạm về ma túy công an huyện Hà Trung dừng xe mô tô biển kiểm soát 36B6-206.04 do Trần Quốc T điều khiển để kiểm tra thì phát hiện T thả xuống đường 1 gói nhỏ bọc bằng nilon màu đen đang cầm ở tay trái, ngay cạnh chỗ T đang đứng. Nghi là ma túy, Tổ công tác tiến hành thu giữ, ngay tại chỗ T khai đó là gói ma túy vừa mua giá 100.000 đồng để sử dụng. Tổ công tác tiến hành niêm phong tang vật, đưa T và xe mô tô biển kiểm soát 36B6-206.04 cùng tang vật về trụ sở Công an huyện Hà Trung lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tang vật thu giữ gồm: 01 gói nhỏ bên ngoài bọc bằng nilon màu đen, bên trong chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn niêm phong ký hiệu “Vụ Trần Quốc T”; 01 xe mô tô biển kiểm soát 36B6-206.04.

Tại bản kết luận giám định số 1771/MT-PC09 ngày 28/8/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì niêm phong ký hiệu “Vụ Trần Quốc ” gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng (khối lượng) là 0,131g (không phẩy một ba một gam) loại: Heroine.

Quá trình điều tra Trần Quốc T khai nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút, ngày 23/8/2018 Trần Quốc T từ nhà ở thôn 8, xã VA, huyện VL lấy xe mô tô của bà Vũ Thị T (mẹ bị cáo) đi chơi, sau đó đi xuống thị trấn HT mua ma túy để sử dụng. T đi đến đoạn nhà máy thuốc lá thuộc Tiểu khu 3, thị trấn HT rẽ vào đường bên cạnh nhà máy thuốc lá và đi thẳng qua một ngã ba khoảng 50m T gặp và mua của một người đàn ông khoảng 35 tuổi một gói ma túy, bên ngoài bọc nilon màu đen với giá 100.000 đồng. T cầm gói ma túy vừa mua ở tay trái rồi theo đường cũ về nhà. Khi T đi về đến Quốc lộ 1A thì bị Lực lượng Công an dừng xe để kiểm tra. Do sợ bị phát hiện, T thả gói ma túy từ tay trái xuống đất ngay cạnh chỗ T đang đứng nhưng đã bị Công an phát hiện thu giữ ngay. Công an kiểm tra gói nhỏ thấy bên ngoài túi bọc bằng nilon màu đen, bên trong có chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn. Kiểm tra người T và xe mô tô không phát hiện và thu giữ gì thêm.

Cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 31/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 21 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với vật chứng thu giữ được và bản kết luận giám định đủ cơ sở khẳng định: Ngày 23/8/2018 Trần Quốc T đã có hành vi tàng trữ một gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,131gam nhằm mục đích sử dụng trái phép. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Đây là loại chất gây nghiện có tác hại rất lớn và ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Mặt khác, bị cáo là đối tượng có nhân thân rất xấu đều liên quan đến hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 05/11/2012 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trung tâm giáo dục – lao động xã hội để cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng. Bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 09/11/2014. Ngày 30/12/2016, bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tuyên miễn trách nhiệm sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo được hưởng tình tiết giám nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Trong vụ án này, bị cáo khai đã mua ma túy của một nam thanh niên khoảng 35 tuổi, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.

[3]. Về vật chứng: Số ma túy cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu huỷ. Chiếc xe môtô biển kiểm soát 36B6-206.04 T dùng làm phương tiện đi mua ma túy để sử dụng là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của bà Vũ Thị T nên cơ quan điều tra đã trả lại cho bà T là phù hợp.

[4]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Về tội danh: Bị cáo Trần Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Quốc T 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 23/8/2018.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: Toàn bộ số Heroine còn lại sau giám định, được đựng trong phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong (Đặc điểm của phong bì niêm phong theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hà Trung ngày 05/11/2018).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Trần Quốc T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2018/HS-ST ngày 27/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:67/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về