Bản án 03/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 03/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố L, tỉnh Lào Cai (Đường B2, phường Bắc Cường, Thành phố L, tỉnh Lào Cai).

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/HSST-QĐ ngày 11 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo:

1.Lương Đức V, tên gọi khác: Không - Sinh ngày 02 tháng 11 năm 1991 tại Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Nơi ĐKHKTT: Tổ 20, phường D, Thành phố L; Nơi ở trước khi bị bắt: Tổ 20, phường D, Thành phố L, tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lương Đức Quân và bà Hoàng Thị Huệ. Bị cáo chưa có vợ, chưa có con. Tiền án: Không;Tiền sự: Không; Nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu đã bị xét xử 01 năm 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tháng 4/2016 chấp hành xong hình phạt tù đến nay đã được xóa án tích. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 28/9/2018, tạm giam từ ngày 07/10/2018. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an Thành phố L “Có mặt tại phiên Tòa”.

2. Dương Thị T - Sinh ngày 03 tháng 08 năm 1989 tại huyện B, tỉnh Lào Cai. Nơi ĐKHKTT và nơi ở trước khi bị bắt: Thôn Thái Vô, xã X, huyện B,tỉnh Lào Cai; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Xuân Thùy (đã chết) và bà Lục Thị Thanh. Bị cáo có chồng là Nguyễn Văn Dũng sinh năm 1983 (Đã ly hôn năm 2009), bị cáo có một con sinh năm 2008 Hiện ở tại thôn Thái Vô, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Tiền án: Không;Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 28/09/2018, tạm giam từ ngày 07/10/2018. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an Thành phố L “Có mặt tại phiên tòa”.

- Người làm chứng: Chị Trần Thị Q Địa chỉ: Tổ 17, phường D, Thành phố L, Thành phố L. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người chứng kiến: Chị Trần Thị Thu Hà Địa chỉ: Tổ 04, phường D, Thành phố L (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 45 phút ngày 27/09/2018, tổ công tác đội Cảnh sát ma túy Công an Thành phố L làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 19C, phường D, Thành phố L, tỉnh Lào Cai phát hiện một nam giới đang đứng trước cửa số nhà 208 thuộc tổ 19C, phường D, Thành phố L có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính, người nam giới này khai tên là Lương Đức V và tự giác khai nhận đang cất giấu ma túy trên người. Tổ công tác đã dẫn giải Lương Đức V về trụ sở Công an phường D, Thành phố L lập biên bản bắt người phạm tội quả tang trước sự chứng kiến của chị Trần Thị Hà Thu trú tại: tổ 4, phường D, Thành phố L, Lương Đức V đã tự giác lấy từ trong túi quần bên trái, phía trước đang mặc ra 01 (một) túi ni lon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng Lương Đức V khai nhận đó là ma túy đá, vừa mua của một người bạn là nữ giới có tên nic trên mạng xã hội Facebook là “Dương Na Na”, tên tự giới thiệu là Dương, Lương Đức V không biết họ, địa chỉ cụ thể ở khu vực quảng trường ga Phố Mới, Thành phố L với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) với mục đích mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng trước sự chứng kiến của chị Trần Thị Hà T.

Ngoài ra còn tạm giữ của Lương Đức V 01 (một) coóng thủy tinh; 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Lương Đức V; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám đen, màn hình bị nứt vỡ.

Trên cơ sở từ những lời khai nhận của Lương Đức V. Hồi 00 giờ 20 phút ngày 28/09/2018, tổ công tác đội Cảnh sát ma túy Công an Thành phố L kiểm tra rà soát tại khu vực quảng trường ga Phố Mới thuộc tổ 26, phường Phố Mới, Thành phố L phát hiện hai người phụ nữ đang ngồi ở quán nước trên vỉa hè có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra hành chính hai người phụ nữ này khai nhận tên là Dương Thị T (tên gọi khác Dương) Dương Thị T khai vừa bán 01 (một) gói ma túy đá cho một người nam giới tên Vinh (không biết họ, địa chỉ cụ thể) với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Người phụ nữ còn lại khai tên là Trần Thị Q (tên gọi khác Quỳnh Anh), Trần Thị Q khai hiện đang cất giấu ma túy trên người. Trước sự chứng kiến của chị Trần Thị Phương L trú tại: tổ 11, phường Phố Mới, Thành phố L, Trần Thị Q đã tự giác giao nộp 1,88 (một phẩy tám mươi tám) gam ma túy MDMA, 2,21 (hai phẩy hai mươi mốt) gam ma túy Ketamine và 2,75 (hai phẩy bẩy mươi lăm) gam ma túy Methamphetamine. Trần Thị Q và Dương Thị T khai nhận toàn bộ số ma túy trên là của hai người chung nhau để bán kiếm lời. Tổ công tác đã dẫn giải Trần Thị Q và Dương Thị T về trụ sở Công an phường Phố Mới, Thành phố L, tỉnh Lào Cai lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng trước sự chứng kiến của chị Trần Thị Phương Loan.

Ngoài ra còn tạm giữ của Trần Thị Q 01 chiếc ví giả da màu đen, 01 điện thoại Sam Sung số IMEI 355726/09/754895/3 mặt sau điện thoại có ốp bọc.

Tạm giữ của Dương Thị T 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), 01 điện thoại Iphone số IMEI 355733076534186, 01 điện thoại Nokia số Seri 359315045845939.

Ngày 28/09/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L ra quyết định tạm giữ số 113, 115 đối với Lương Đức V và Dương Thị T để điều tra.

Quá trình điều tra các bị can Lương Đức V và Dương Thị T khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 20/09/2018, tại phòng trọ gần khu vực Nhà Máy Bia thuộc phường Kim Tân, Thành phố L, Dương Thị T nhắn tin qua mạng xã hội Zalo với Hoàng Thị Vân Anh (sinh năm 1983, trú tại: tổ 20, phường Phố Mới, Thành phố L) để mua ma túy đá với nội dung “chị ơi em mới lên Lào Cai, em muốn xăm hình nhưng em sợ đau, chị có thuốc giảm đau không, cho em một tí, em gửi tiền sau”, Hoàng Thị Vân Anh trả lời “ra đầu cầu Phố Mới chỗ Ngã 6 có anh đi trên xe Taxi đỗ ở đó, anh ấy đưa thì cầm”. Dương Thị T ra đầu cầu Phố Mới thì thấy một chiếc xe Taxi đỗ ở đó, người nam giới ngồi sau ghế lái đưa cho Dương Thị T 02 (hai) túi ni lon bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. Biết đây là ma túy đá nên Dương Thị T đã cất giấu vào trong chiếc túi sách rồi đi về phòng trọ và sử dụng 01 (một) túi ma túy đá rồi đi xăm hình. Khoảng 23 giờ ngày 27/09/2018, Dương Thị T ra quảng trường ga Phố Mới chơi. Tại đây Dương Thị T nhận được điện thoại của Lương Đức V (Vinh dùng số điện thoại 0813310123 gọi vào số 0966462096 của Tuyết) hỏi “còn ma túy đá không bán cho anh một ít” Dương Thị T trả lời “em còn một ít” và hẹn ra quảng trường ga Phố Mới để mua bán ma túy. Một lúc sau Lương Đức V đi xe Taxi đến, Dương Thị T đã bán cho Lương Đức V 01 (một) túi ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy Lương Đức V đi về nhà, khi Lương Đức V đang đứng trước cửa số nhà 208 thuộc tổ 19C, phường D, Thành phố L thì bị tổ công tác đội Cảnh sát ma túy Công an Thành phố L kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Còn Dương Thị T khi đang ngồi uống nước với Trần Thị Q trước cửa ga Phố Mới thì bị tổ công tác đội Cảnh sát ma túy Công an Thành phố L kiểm tra hành chính, Dương Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình.

Ngày 28/09/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L ra quyết định tạm giữ số 113, 115 đối với Lương Đức V và Dương Thị T để điều tra.

Ngày 01/10/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L ra quyết định trưng cầu giám định số 191 đối với vật chứng đã thu giữ của Lương Đức V. Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định hồi 15 giờ ngày 01/10/2018, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai, niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định, xác định: 01 (một) túi ni lon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng có khối lượng 0,18 (không phẩy mười tám) gam. Cơ quan giám định tiến hành trích mẫu 0,10 (không phẩy mười) gam để tiến hành giám định. Còn lại 0,08 (không phẩy không tám) gam, tái niêm phong hoàn trả lại cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 196/GĐMT ngày 02/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,18 (không phẩy mười tám) gam các hạt tinh thể rắn, màu trắng gửi giám định là loại chất ma túy Methamphetamine.

Cáo trạng số 04/KSĐT ngày 02/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố L truy tố bị cáo Lương Đức V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Dương Thị T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố là điểm c khoản 1 điều 249- Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 251- Bộ luật Hình sự.

Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự. khoản 1 Điều 251- Bộ luật Hình sự.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Lương Đức V phạm tội “Tàng Trữ trái phép chất ma túy” xử phạt bị cáo Lương Đức V với mức án từ 12 (Mười hai) tháng tù đến 18(mười tám) tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Lương Đức V Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Dương Thị T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Dương Thị T 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù giam.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Dương Thị T

Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 ; điểm a,b khoản 2 điều 106; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy (Methamphetamine)còn lại sau giám định.

Đối với bị cáo Lương Đức V: Tịch thu tiêu hủy 01(Một) coong thủy tinh. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám đen, màn hình bị nứt vỡ; Trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Đức V.

Đối với bị cáo Dương Thị T: Tịch thu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại Iphone số IMEI 355733076534186 để nộp ngân sách nhà nước; Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại Nokia số Seri 359315045845939 (Đã qua sử dụng) để đảm bảo công tác thi hành án.

Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố L, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, tang vật thu giữ và kết luận giám định. Khoảng 18 giờ ngày 20/09/2018, tại phòng trọ gần khu vực Nhà Máy Bia thuộc phường Kim Tân, Thành phố L, Dương Thị T nhắn tin qua mạng xã hội Zalo với Hoàng Thị Vân Anh để mua ma túy đá với nội dung “chị ơi em mới lên Lào Cai, em muốn xăm hình nhưng em sợ đau, chị có thuốc giảm đau không, cho em một tí, em gửi tiền sau”, Hoàng Thị Vân A trả lời “ra đầu cầu Phố Mới chỗ Ngã 6 có anh đi trên xe Taxi đỗ ở đó, anh ấy đưa thì cầm”. Dương Thị T ra đầu cầu Phố Mới thì thấy một chiếc xe Taxi đỗ ở đó, người nam giới ngồi sau ghế lái đưa cho Dương Thị T 02 (hai) túi ni lon bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng. Biết đây là ma túy đá nên Dương Thị T đã cất giấu vào trong chiếc túi sách rồi đi về phòng trọ và sử dụng 01 (một) túi ma túy đá rồi đi xăm hình. Khoảng 23 giờ ngày 27/09/2018, Dương Thị T ra quảng trường ga Phố Mới chơi. Tại đây Dương Thị T nhận được điện thoại của Lương Đức V (Vinh dùng số điện thoại 0813310123 gọi vào số 0966462096 của Tuyết) hỏi “còn ma túy đá không bán cho anh một ít” Dương Thị T trả lời “em còn một ít” và hẹn ra quảng trường ga Phố Mới để mua bán ma túy. Một lúc sau Lương Đức V đi xe Taxi đến, Dương Thị T đã bán cho Lương Đức V 01 (một) túi ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy Lương Đức V đi về nhà, khi Lương Đức V đang đứng trước cửa số nhà 208 thuộc tổ 19C, phường D, Thành phố L thì bị tổ công tác đội Cảnh sát ma túy Công an Thành phố L kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang. Còn Dương Thị T khi đang ngồi uống nước với Trần Thị Q trước cửa ga Phố Mới thì bị tổ công tác đội Cảnh sát ma túy Công an Thành phố L kiểm tra hành chính, Dương Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của mình. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lương Đức V phạm tội “ tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo Dương Thị T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo Lương Đức V là người có nhân thân xấu tại bản án số 17/HSST ngày 23/03/2015 của Tòa án nhân dân Thành phố L xét xử về tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” xử phạt 01 năm 06 tháng tù, đến ngày 27/04/2016 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù đã được xóa án tích. Vì vậy, cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung. Xong xét thấy các bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, bị cáo Lương Đức V có ông nội là ông Lương Đức T là liệt sỹ được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, bị cáo Dương Thị T có ông nội là ông Dương Ngọc Dùng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba, nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Đối với người nữ giới tên Hoàng Thị Vân A đã bán ma túy cho Dương Thị T. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L đã triệu tập lấy lời khai và lập biên bản đối chất giữa Dương Thị T và Hoàng Thị Vân A. Hoàng Thị Vân A không thừa nhận hành vi đã bán ma túy cho Dương Thị T. Như vậy ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu nào khác để chứng minh. Do vậy, không điều tra làm rõ được, khi nào xác minh, làm rõ được sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông bị cáo Dương Thị T khai đã đưa ma túy cho bị cáo ở đầu cầu Phố Mới. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu nào khác để chứng minh. Do vậy, không điều tra làm rõ được, khi nào xác minh, làm rõ được sẽ xử lý sau.

Đối với số ma túy thu giữ của Trần Thị Q gồm: 1,88 (một phẩy tám mươi tám) gam MDMA, 2,21 (hai phẩy hai mươi mốt) gam Ketamine và 2,75 (hai phẩy bẩy mươi lăm) gam Methamphetamine. Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 00 giờ 20 phút ngày 28/09/2018, Trần Thị Q và Dương Thị T khai nhận toàn bộ số ma túy trên là ma túy chung của hai người. Tuy nhiên trong quá trình điều tra Dương Thị T đã thay đổi lời khai, khai toàn bộ số ma túy trên là của một mình Trần Thị Q. Trần Thị Q cũng thừa nhận toàn bộ số ma túy trên là của một mình Trần Thị Q. Như vậy ngoài lời khai của Trần Thị Q và Dương Thị T khi bị bắt quả tang ra không có tài liệu khác để chứng minh. Do vậy, không điều tra làm rõ được, khi nào xác minh, làm rõ được sẽ xử lý đối với Dương Thị T sau.

Đối với số ma túy và đồ vật, tài sản thu giữ của Trần Thị Q gồm: 1,88 (một phẩy tám mươi tám) gam MDMA; 2,21 (hai phẩy hai mươi mốt) gam Ketamine; 2,75 (hai phẩy bẩy mươi lăm) gam Methamphetamine; 01 (một) chiếc ví giả da màu đen, 01 (một) điện thoại Sam Sung số IMEI 355726/09/754895/3 mặt sau điện thoại có ốp bọc. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L đang tạm giữ để giải quyết ở một vụ án khác.

[4] Bị cáo Lương Đức V là người mua ma túy về mục đích để sử dụng cho bản thân. Vì vậy bị cáo Lương Đức V phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội là “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là 0,18 (Không phẩy mười tám) gam ma túy Methamphetamine.

Bị cáo Dương Thị T là người mua số ma túy về và đã bán cho bị cáo Lương Đức V để kiếm lời. Vì vậy bị cáo Dương Thị T phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội là “ Mua bán trái phép chất ma túy” với 0,18 (Không phẩy mười tám) gam ma túy Methamphetamine.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có tài sản gì riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Lương Đức V và Dương Thị T.

[6] Về vật chứng vụ án: Khi bắt giữ bị cáo Lương Đức V, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố L đã thu giữ 0,18 (Không phẩy mười tám) gam ma túy Methamphetamine. Sau khi trích mẫu giám định số ma túy còn lại là 0.08 (không phẩy không tám) gam đã được tái niêm phong theo quy định bằng bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Xét đây là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với số tiền số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) là tiền bị cáo Dương Thị T bán ma túy mà có và 01 điện thoại Iphone số IMEI 355733076534186 thu giữ của bị cáo Dương Thị T, bị cáo dùng điện thoại vào việc liên lạc để mua bán ma túy. Vì vậy cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước; Cần tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại Nokia số Seri 359315045845939 (Đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám đen, màn hình bị nứt vỡ là điện thoại bị cáo Lương Đức V dùng vào việc liên lạc để mua ma túy vì vậy cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.Đối với 01(Một) coong thủy tinh xét thấy không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Đức V xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần trả lại cho bị cáo là phù hợp theo quy định của pháp luật.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Lương Đức V phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý’’. Xử phạt bị cáo Lương Đức V 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 28/09/2018.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.Tuyên bố bị cáo Dương Thị T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Dương Thị T 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 28/09/2018.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, b khoản 2 điều 106; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy một bì thư được tái niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai bên trong có: 0,08 (không phảy không tám) gam Methamphetamine. Tại các mép dán của bì thư có chữ ký của hai bên giao nhận và hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt của niêm phong mới có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Lương Đức V có hành vi phạm tội về ma túy Methamphetamine. Phát hiện (thu giữ) ngày 27/09/2018 tại tổ 19C phường D, Thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Đối với Lương Đức V: Tịch thu tiêu hủy 01(Một) coong thủy tinh. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám đen, màn hình bị nứt vỡ; Trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Lương Đức V.

Đối với bị cáo Dương Thị T: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone số IMEI 355733076534186; Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại Nokia số Seri 359315045845939 (Đã qua sử dụng) để đảm bảo công tác thi hành án.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/01/2019) Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được niêm phong.Trên mặt trước của bì niêm phong ghi “Số tiền vật chứng thu giữ của Dương Thị T phạm tội mua bán trái phép chất ma túy xẩy ra ngày 27/9/2018”.

(Theo biên bản giao nhận tài sản giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố L và Kho bạc nhà nước Thành phố L ngày 24/12/2018).

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc các bị cáo Lương Đức V và Dương Thị T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Điều 7a Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

358
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 03/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:03/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về